Văn hoá bao gồm các giá trị vật chất lẫn tinh thần. Các yếu tố văn học, nghệ thuật, triết học, chính trị, tôn giáo, đạo đức, phong tục, tập quán, tín ngưỡng... đều là những bộ phận hợp thành và làm phong phú giá trị văn hoá tinh thần.
Nếu văn hoá thể hiện quan điểm và cách ứng xử của con người trước thế giới thì văn học là hoạt động lưu giữ những thành quả đó một cách sinh động nhất. Văn hoá có tính hệ thống, có tính giá trị và tính nhân sinh, và văn học vừa mang tính hình tượng vừa là cách thể hiện văn hoá của con người, của dân tộc trong từng thời kì lịch sử. Do vậy, tìm hiểu triết lý dân gian trong truyện cổ tích thần kì dưới góc nhìn văn hoá cũng là cách định hướng cho con người đến với giá trị chân, thiện, mĩ đích thực trước những bộn bề của cuộc sống trong thời kì hội nhập.
Trong loại hình tự sự của sáng tác dân gian thì truyện cổ tích là thể loại được xây dựng trên những cốt truyện, và cốt truyện của truyện cổ tích thường được xây dựng dựa vào những mâu thuẫn xảy ra trong cuộc sống của nhân dân. Đó là mâu thuẫn giữa người giàu, kẻ nghèo, giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị; giữa sự tham lam và thật thà, giữa sự độc ác và lương thiện... Ở mỗi loại mâu thuẫn phần lớn những người nghèo khổ, thấp cổ bé họng, đứa trẻ mồ côi... đều phải chịu nhiều đắng cay, oan khuất; tác giả dân gian đã phải thông qua hư cấu thần kì để giải quyết những mâu thuẫn, bất công mà con người đáng thương phải gánh chịu.
Văn học là tấm gương phản chiếu đời sống của nhân dân và truyện cổ tích cũng vậy, qua việc phản ánh đời sống nhân dân, truyện cổ tích đồng thời phản ánh thế giới quan, nhân sinh quan của nhân dân; khi phản ánh hiện thực, truyện cổ tích đồng thời phản ánh nguyện vọng cải tạo hiện thực ấy. Nói như Macxim Gorki: Truyện cổ tích luôn luôn chiếu rọi ánh sáng vào một thế giới khác.
Soi chiếu dưới góc nhìn văn hoá thì triết lý dân gian trong truyện cổ tích thần kì vừa gặp gỡ vừa đồng nhất với văn hoá dân tộc. Văn hoá Việt Nam là Văn hóa nông nghiệp lúa nước với các đặc trưng trọng tình, trọng đức, trọng văn gặp gỡ, đồng nhất với triết lý ở hiền gặp lành, thương người như thể thương thân, triết lý nhân quả và khát vọng công bằng trong xã hội.
Quy luật nhân quả chỉ ra rằng mỗi kết quả trong cuộc sống của mỗi người đều có một nguyên nhân. Hạnh phúc hay khổ đau đều có nguyên nhân. Thành công hay thất bại đều có nguyên nhân. Người Scotlen có câu tục ngữ: “Thà thắp sáng một ngọn nến bé nhỏ còn hơn là ngồi nguyền rủa bóng tối”. Câu tục ngữ này nhắc nhở chúng ta hãy tìm ra hạt nhân của những sự việc xảy ra trong đời sống của chúng ta. Câu tục ngữ: Gieo gió, gặp bão thể hiện rõ triết lý nhân quả trong dân gian.
Với quan niệm sinh ký, tử quy, sống trên đời chỉ là tạm bợ, chết mới là vĩnh cửu, người Việt Nam thường lo lắng, chuẩn bị cho tương lai, nên triết lý nhân quả trở thành các quy luật cơ bản của cuộc sống là: quy luật niềm tin, quy luật kỳ vọng, quy luật hấp dẫn, quy luật tương ứng. Các quy luật này thể hiện trong rất nhiều truyện: Sự tích chim tu hú; Sự tích con muỗi; Sự tích con khỉ; Sự tích con mối hay Thạch sùng còn thiếu mẻ kho; Mụ dì ghẻ ác nghiệt hay Sự tích con dế; Chưa đỗ ông nghè, đã đe hàng tổng; Bụng làm dạ chịu hay là chuyện thầy hít; Của thiên trả địa; Sinh con rồi mới sinh cha, sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông; Thạch Sanh; Tiêu diệt mãng xà; Cây tre trăm đốt; Bốn người bạn...
Những câu chuyện kể về sự tích các con vật như: Sự tích chim tu hú, Sự tích con muỗi, Sự tích con khỉ, Sự tích con mối hay Thạch sùng còn thiếu mẻ kho, Mụ dì ghẻ ác nghiệt hay Sự tích con dế đều tìm căn nguyên để chỉ ra vì sao người vợ biến thành con muỗi, người đàn ông đi tu mà biến thành con chim tu hú, gia đình thằng nhà giàu bị biến thành khỉ, người đàn ông bị biến thành con thạch sùng, hay mụ dì ghẻ bị biến thành con dế…
Sự trừng phạt ở đây là không cho làm người mà bắt phải biến thành vật, mỗi con vật mang hình hài của cái sai, cái ác mà con người gây ra.
Người đàn ông bị biến thành chim tu hú vì mắc cái tật nóng nảy, để người đời đặt cho cái tên là Bất Nhẫn. Anh nguyện sửa mình, vào rừng ngồi thiền định được 99 ngày, đến ngày cuối cùng không chịu đựng được cuộc cãi vã của bầy chim làm tổ trên đầu mình, anh đã phá hỏng thành quả sau 99 ngày thiền định.
Bất Nhẫn cũng cầu tiến, tiếp tục sửa mình bằng nghề đưa đò qua sông, nguyện chở được 100 người, anh chở được 98 người rồi, vậy mà khi chở hai người khách cuối cùng - hai mẹ con người đàn bà qua sông anh ta không kiên nhẫn chịu đựng thử thách, nên bị người đàn bà hiện nguyên hình Phật bà Quan âm bảo với Bất Nhẫn: Thế mà anh cũng nguyện đòi sửa đổi tính nết, cũng đòi tu? Tu hành gì anh, tu hú!. Vì câu nói đó mà anh nhuốm bệnh, chết, biến thành chim tu hú. Triết lý nhân quả nhãn tiền từ câu chuyện Sự tích chim tu hú, người mà có tính nóng nảy, thiếu kiên nhẫn không bao giờ hoàn thành ước nguyện cũng như công việc mà mình theo đuổi.
Mối tình chung thuỷ của người chồng với người vợ trong truyện Sự tích con muỗi khiến thần linh cũng phải động lòng. Vợ chết mà ôm xác vợ lênh đênh sông nước, không chịu rời xa, nên thần linh mách bảo cho chàng hãy cho vợ mình 3 giọt máu để nàng sống lại. Thế nhưng người vợ thì thật bội bạc, vội vàng theo tên lái buôn giàu có, quên đi tình cũ nghĩa xưa, quên cả tấm tình chung thuỷ của người chồng tội nghiệp. Người chồng tức giận, đòi lại 3 giọt máu của mình, thị tưởng ra đi dễ dàng thì trả lại 3 giọt máu cũng dễ dàng, nhưng vừa trả lại 3 giọt máu thì thị cũng ngã lăn ra chết, biến thành con muỗi, đó là triết lý sâu sắc nhất cho những ai nông nổi, phụ bạc sẽ phải trả giá đắt cho chính cuộc đời của mình.
Câu chuyện Sự tích con khỉ kể về cô gái đi ở vì quá cực khổ mà trở nên xấu xí, Phật hiện lên an ủi, bày cho cô trở nên xinh đẹp. Nhìn thấy vậy, gia đình nhà giàu cũng ra giếng gánh nước, bắt chước cô gái, nhưng nếu cô gái hút nhị hoa màu trắng trở nên trắng trẻo, thì gia đình lão nhà giàu lại hút nhị hoa màu đỏ nên da mặt nhăn nheo, xấu đi trông thấy. Sự thay đổi hình hài của gia đình lão nhà giàu khiến dân làng hoảng sợ, thế là đành phải kéo nhau vào rừng để ở… Sự hoán đổi này như là sự đền bù cho những bất công mà cô gái phải gánh chịu, trừng phạt những kẻ nhà giàu bóc lột sức lao động của con người, đối xử với con người thiếu sự thương cảm. Câu chuyện Sự tích con mối hay Thạch sùng còn thiếu mẻ kho kể về gã ăn mày Thạch Sùng có chí kinh doanh lớn, lại có nhiều thủ đoạn, đầu cơ tích trữ lúa gạo để đến khi dân làng gặp thiên tai thì đem ra trục lợi, rồi y làm nghề cho vay lấy lãi… nghĩa là không từ một thủ đoạn kinh doanh nào để trở thành phú ông. Rồi hắn thành Quận công vì dùng tiền để mua địa vị. Gần đó cũng có gã nhà giàu gia thế không kém gì Thạch Sùng, hai bên tỉ thí với nhau về chuyện khoe khoang của cải, gia thế… Trong cơn cao hứng Thạch Sùng đã kí vào bản giao kèo, mà nếu thua thì y mất tất cả, khi hỏi đến cái mẻ kho nhà mình thì hắn không nhớ ra rằng cái thuở hàn vi hắn nhặt từ đống rác về dùng kho cá, nay giàu sang phú quý rồi, hắn làm sao nhớ ra thứ vật dụng tầm thường đó, thế là: Hắn cay đắng nhìn thấy tất cả gia sản cho đến vợ con, nàng hầu, nô tỳ v.v. .. đều chạy sang tay họ Vương. Câu chuyện là bài học nhớ đời cho những ai sớm quên đi cái thuở hàn vi của mình khi đã trở nên giàu sang, phú quý.
Mụ dì ghẻ ác độc trong câu chuyện Mụ dì ghẻ ác nghiệt hay Sự tích con dế sợ con riêng của chồng sẽ lấy hết gia sản (phản ánh quy luật kế thừa tài sản của người xưa), đã xúi con trai mình giết chết Văn Linh, nhưng đứa em cùng cha khác mẹ thương yêu anh trai mình, bày cho anh trai mình đi trốn. Văn Linh vừa tủi thân, vừa buồn bã đến bên mộ mẹ khóc lóc vật vã, người mẹ nằm dưới mộ thương con quá đã biến thành con chim phượng hoàng ấp vào đôi cánh, rồi đưa con lên ngọn núi cao, khuyên con học hành đèn sách, nhờ thế mà chàng đỗ Tiến sĩ, lấy được người vợ xinh đẹp, lúc chàng vinh quy bái tổ, người dì ghẻ nghe tin đột ngột không kịp trốn, bèn chui xuống nấp dưới gậm giường. Nhưng vì quá sợ hãi mụ đã vỡ mật mà chết, hóa thành con dế. Câu chuyện kết thúc có hậu với cuộc đời vinh hoa phú quý của Văn Linh và quả báo với mụ dì ghẻ ác độc. Không ai trừng trị, chỉ vì sợ hãi cho tội ác mà mình từng gây ra mà chết, chết còn bị biến thành con dế, suốt đời sống chui lủi dưới những bụi cỏ, trong các hang sâu dưới đất, hay dưới những đống đổ nát…
Triết lý nhân quả trong những chuyện: Chưa đỗ ông nghè, đã đe hàng tổng; Bụng làm dạ chịu hay là chuyện thầy hít; Của thiên trả địa; Sinh con rồi mới sinh cha, sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông chỉ ra căn nguyên thất bại của những con người chủ quan, hèn kém, độc ác, vô tình, bạc nghĩa.
Câu chuyện Chưa đỗ ông nghè, đã đe hàng tổng kể về anh học trò nghèo nhưng học giỏi, sổ Thiên tào đã ghi cho anh đậu Tiến sĩ, làm quan đến Thượng thư, câu chuyện ở Thiên tào được báo mộng cho người từ giữ đền nơi anh học trò ở. Nghe câu chuyện nằm mộng của người giữ đền anh ta đã vội huyênh hoang tự đắc, tìm cách bỏ người vợ tào khang của mình, mắng mỏ chửi bới với những người đến đòi nợ, doạ dẫm mọi người: rồi chúng mày sẽ biết tay ông… Mọi hành vi của hắn đều được báo lên Thiên đình, Thiên đình tước mất phúc của hắn, kết tội: dưới trăng bỏ vợ, trước sân đòi nhà, chưa làm nên đã thất đức. Bây giờ nó không được hưởng phúc nữa. Từ đó y thi mãi không đỗ, cuộc đời lụn bại, cô độc… Chủ quan, kiêu ngạo, huyênh hoang, tự đắc là căn nguyên của sự thất bại.
Những kẻ vô công rồi nghề, ăn bám vợ, ba hoa khoác lác cũng sẽ có những kết cục thê thảm như trong truyện Bụng làm dạ chịu hay là chuyện thầy hít. Gã đàn ông lười biếng rình mò nghe trộm, dối trá với vợ là học được nghề hít có thể chỉ ra những của cải đã mất. Những lần y thành công chỉ là như chó ngáp phải ruồi, vận may chưa thấy đâu chỉ thấy vận rủi, liên tiếp là những lời mời tìm của bị mất cho người ta, có lần hắn suýt chết khi được mời lên kinh đô, và lần bị mời đi sứ bên Tàu, vì sợ hãi hắn tự tử, khi vớt lên hắn bị sứt một bên mũi. Cái mũi bị sứt là kết quả của cái thói ba hoa khoác lác.
Những kẻ bội bạc, vong ân bội nghĩa thì dù có làm quan, giàu có trong phút chốc cũng chỉ là Của thiên trả địa mà thôi, vì cái đức chưa đủ để tích phúc, đưa lại những may mắn.
Câu chuyện Sinh con rồi mới sinh cha, sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh ông cũng có nội dung tương tự như trên, ở đây người bạn vong ân bội nghĩa còn giết chết bạn mình để nuốt trôi số tiền nợ năm xưa, nhưng người bạn đó đã đầu thai kiếp khác để trừng trị loại người độc ác, vong ân bội nghĩa.
Bốn người bạn cũng kể về sự bội tín, âm mưu hãm hại bạn bè của Giáp với Ất, Ất vừa mất vợ, vừa bị giam vào ngục vì bị đổ tội giết vợ. May mà còn hai người bạn tốt là Bính và Đinh cứu giúp, nên Ất thoát tội. Còn kẻ bội bạc, độc ác thì bị trời trị tội.
Bạn bè hữu tín – bạn bè với nhau lấy chữ tín làm đầu, cả hai câu chuyện kể đều nói về sự phụ bạc với bạn bè thì sẽ bị trừng trị đích đáng, đấy cũng là luân thường đạo lý ở đời.
Triết lý nhân quả về sự trừng phạt với cái ác quyết liệt hơn ở những câu chuyện: Thạch Sanh; Tiêu diệt mãng xà; Cây tre trăm đốt.
Môtip dũng sĩ lập công ở hai câu chuyện Thạch Sanh; Tiêu diệt mãng xà đều có những nét tương đồng. Nhân vật chính là những người dũng cảm, giết Chằn tinh, giết Mãng xà, đều bị tranh công. Thạch Sanh nhờ tiếng đàn để chữa cho công chúa hết câm, được lấy công chúa, được lên làm vua; chàng trai trẻ đi tìm lại mũi gươm của mình, được lấy công chúa. Hình thức trừng phạt ở chuyện Thạch Sanh cao hơn một mức là người không trị mà trời trị. Hai mẹ con Lý Thông bị trời đánh biến thành con bọ hung, con bọ hung suốt đời chui rúc trong đống phân là đòn trừng trị đích đáng cho những kẻ tranh công, độc ác, hãm hại kẻ khác. Đời này vẫn không thiếu những kẻ như Lý Thông nên câu chuyện Thạch Sanh là triết lý nhân sinh muôn đời.
Cây tre trăm đốt là công lý của nhân dân, trừng trị những kẻ nhà giàu độc ác, bóc lột sức người, lừa dối người lao động. Nhờ có câu thần chú mầu nhiệm khắc xuất, khắc nhập mà người đi ở lấy được con gái nhà giàu, trị cho lão nhà giàu cái tội lừa bịp bỉ ổi.
Gieo nhân nào thì gặt quả đó, hay như câu tục ngữ gieo gió, gặt bão; con người hiện đại thì nói tính cách quyết định số phận. Con người nếu tham lam, thủ đoạn, độc ác, tráo trở, bội bạc... thì không dễ gì được làm người mà phải biến thành những con vật, đó là những bài học sâu sắc về quá trình tu dưỡng đạo đức ở mỗi người.
Làm người mà bội tín, vong ân bạc nghĩa, huyênh hoang tự đắc, vô tài bất tướng, lười biếng... thì đều phải trá giả cho chính cuộc đời của mình. Giàu sang, phú quý phút chốc cũng tiêu tan nếu không tích đức thì không phùng đức – đó là văn hoá nhân văn muôn đời của người Việt Nam.
Tranh công, cướp công, tìm cách hãm hại người khác để leo lên vị trí giàu sang phú quý đều bị trời trị tội.
Triết lý nhân quả trong các câu chuyện cổ tích thần kỳ không chỉ kể về tội ác và trừng phạt, mà còn kể về những khúc quanh của số phận con người nếu gặp phải những trắc trở mà thiếu đi niềm tin, hay thiếu sự trợ giúp của bạn bè, thần linh. Nhờ đó mà truyện cổ tích thần kỳ xây dựng cho chúng ta niềm tin về những gì tốt đẹp sẽ được phát huy và những gì xấu xa, độc ác sẽ bị trừng trị.
Những ngày cuối tháng 4 - 2014
Hoàng Thị Thu Thuỷ
Hoàng Thị Thu Thủy