Hiếm có dân tộc nào trên thế giới có truyền thống yêu nước chống ngoại xâm như dân tộc Việt Nam. Sau hơn nghìn năm Bắc thuộc, vừa giành được độc lập vào năm 938, mở ra một thời kì Quốc gia phong kiến độc lập, đất nước ta lại phải chống trả những cuộc xâm chiếm của đế quốc phương Bắc: chống Tống, chống quân Nguyên Mông, chống Minh (từ thế kỷ XI đến thế kỷ XV)… và thế kỷ XVIII đánh tan giặc Thanh…
Những cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại đã tôi luyện bản lĩnh dân tộc, lòng tự hào, khí thế hào hùng dân tộc và tô đậm thêm một truyền thống lớn trong văn học Việt Nam, truyền thống yêu nước, khắc sâu thêm bản sắc văn hoá Việt Nam, bản sắc văn hoá yêu nước.
Chỉ tính từ thế kỷ X đến thế kỷ XV đã có những áng văn chương được xem là những bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc, đó là bài thơ thần Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt và Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi.
Lý Thường Kiệt (1019 – 1105) là một danh tướng đời nhà Lý, đã 2 lần lãnh đạo nhân dân đánh Tống. Lần thứ nhất (1075 – 1076), khi biết tể tướng Vương An Thạch chủ trương khuyếch trương về phương Nam để lấy khí thế mở rộng cương vực cho Trung nguyên về phương Bắc (do sự uy hiếp của các nước Liêu và Hạ), Lý thường Kiệt đã ra tay trước, để danh chính ngôn thuận trong việc dùng binh Bắc phạt, ông đã viết bài Phạt Tống lộ bố văn. Bài văn lộ bố giải thích cho nhân dân Trung Hoa vùng biên giới biết rõ tội ác của triều đình nhà Tống, mặt khác kể tội các quan nhà Tống mưu xâm chiếm Giao Chỉ nên phải mang quân sang đánh:…Nay bản chức vâng mệnh quốc vương chỉ đường tiến quân lên Bắc, muốn dẹp yên làn sóng yêu nghiệt, chỉ có ý phân biệt quốc thổ, không phân biệt chúng dân. Phải quét sạch nhơ bẩn hôi tanh để đến thuở ca ngày Nghiêu, hưởng tháng Thuấn thăng bình!... (bản dịch của Trần Văn Giáp, Thơ văn Lý – Trần, tập 1). Bắc phạt trên ngọn cờ chính nghĩa, nên quân của Lý Thường Kiệt đi đến đâu được nhân dân chào đón đến đó, khi đánh chiếm được thành Ung, hoàn thành mục tiêu, Lý Thường Kiệt rút quân về đúng như lời văn trong lộ bố: chỉ có ý phân biệt quốc thổ (hữu phân thổ vô phân dân chi ý). Từ sự kiện này cho thấy, đế quốc phương Bắc là đế quốc vô liêm sỉ - mất nhân cách tới mức trơ trẽn, không còn biết hổ thẹn là gì. Chúng không chống được các nước Liêu, Hạ, định dùng Giao Chỉ khuyếch trương thanh thế, Lý Thường Kiệt đã không những ngăn chặn được âm mưu tàn độc đó, mà còn đánh cho chúng phải run sợ. Đấy cũng là chiến lược giữ yên bờ cõi của cha ông ta.
Lần thứ 2, vào năm 1077, ở trận tuyến trên sông Như Nguyệt (sông Cầu), đang đêm Lý Thường Kiệt cho quân lính vào đền Trương Hống, Trương Hát, giả làm thần đọc bài thơ Nam quốc sơn hà (bài thơ được gọi là thơ thần cũng vì thế). Bài thơ thần vừa nâng cao sĩ khí quân ta, vừa làm nhụt ý chí quân giặc, từ đó Lý Thường Kiệt cho người sang nghị hoà, quân Tống rút về nước, giữ yên bờ cõi Đại Việt.
Bài thơ thần ra đời trong khoảnh khắc nhưng lại có giá trị vĩnh viễn bởi nó biểu hiện bản lĩnh, khí phách dân tộc, khẳng định chân lý ngàn đời: chính nghĩa bao giờ cũng thắng phi nghĩa. Quan điểm dân tộc được khẳng định rõ ràng: Nam quốc sơn hà Nam đế cư (sông núi nước Nam vua Nam ở) - đất nào sao ấy, nước Nam có đế, cũng như Trung Hoa có đế, nước Nam ngang hàng với Trung Hoa, chứ không phải là phiên vương như giọng điệu của đế quốc phương Bắc. Đất trời phân định rõ ràng, điều này sáng rõ trong sách trời: tiệt nhiên định phận tại thiên thư. Quan điểm chính nghĩa được khẳng định thêm một lần nữa trong hai câu thơ cuối: Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm, Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư (Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm - Cớ sao bọn mọi rợ lại làm trái với sách trời đến đây mà xâm phạm ? Hỏi mà buộc tội, buộc cho bọn mọi rợ cái tội tày đình là đụng vào sách trời, cho nên Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư - Bọn mày sẽ tự chuốc lấy thất bại). Ta không đánh mà giặc thua là cách khẳng định sức mạnh của chính nghĩa, chủ quyền của dân tộc. Thất bại mà quân giặc phải chuốc lấy là do làm trái với sách trời. Nam quốc sơn hà là bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc ta, văn bản đã khẳng định được chủ quyền của dân tộc và sức mạnh chính nghĩa.
Đời Trần (thế kỷ XIII), dân tộc ta đã ba lần đánh thắng quân Nguyên Mông, không chỉ đấng quân vương Trần Nhân Tông để lại những áng văn chương yêu nước hào hùng mà những tướng lĩnh tham gia chiến trận cũng để lại cho đời những tuyệt bút về chủ nghĩa yêu nước.
Trong cuộc chiến chống quân Nguyên Mông lần thứ hai, Trần Hưng Đạo lui quân về Vạn Kiếp và thảo bài Dụ chư tì tướng hịch văn (Hịch tướng sĩ). Bản hùng văn Hịch tướng sĩ của Trần Quốc Tuấn có sức mạnh hơn cả đạo quân tinh nhuệ, bởi đã thôi thúc tình cảm yêu nước mãnh liệt trong tướng sĩ, binh sĩ và nhân dân. Với nghệ thuật hùng biện từ việc vận dụng quan hệ nguyên nhân và kết quả (huống chi, dẫu cho, chẳng những, mà còn, chẳng những, mà, vì sao, nếu vậy…) tạo nên sự hô ứng trong cả bài Hịch (chỉ ra nỗi nhục mất nước, khích lệ tinh thần tướng sĩ); sử dụng phương pháp đối lập, tương phản, so sánh (chuyện xưa - chuyện nay; tội ác của giặc – sự thờ ơ vô trách nhiệm của ta; hậu quả khó lường – tương lai rạng rỡ…); sử dụng phép điệp ngữ, điệp ý, sử dụng dấu phẩy tạo nên nhịp điệu nhanh, mạnh, gấp để tăng thêm tính bức thiết, thiết tha của lời kêu gọi; kết hợp hài hòa giữa yếu tố chính luận và yếu tố văn chương (lí luận chặt chẽ, hình tượng sinh động, ngôn ngữ phù hợp…); giọng văn biến hóa linh hoạt (ôn tồn, thống thiết, chì chiết chua cay, trách mắng, thuyết phục…), bài Hịch vừa nêu gương sáng về lòng trung quân ái quốc trong lịch sử; vừa tố cáo sự ngang ngược của quân giặc và thái độ căm tức của tác giả; vừa thể hiện mối ân tình giữa chủ soái và tướng sĩ, kêu gọi sự thức tỉnh ở các tướng sĩ, vừa kêu gọi tướng sĩ học tập Binh thư yếu lược quyết tâm chiến đấu và chiến thắng kẻ thù xâm lược...
Cũng trong thời điểm đó, Trần Nhân Tông đã viết vào đuôi thuyền những câu thơ trấn an quân lính khi vận mệnh dân tộc đang ở thời điểm ngàn cân treo sợi tóc: Cối Kê cựu sự quân tu ký, Hoan, Diễn do tồn thập vạn binh (Cối Kê việc cũ người nên nhớ, Hoan, Diễn còn kia mười vạn quân). Sử dụng điển tích từ Việt Vương Câu Tiễn vào đúng thời điểm quân ta phải chạy ra Đông Hải tránh sự tấn công của giặc, và các cánh quân của Trần Quốc Tuấn vừa nhóm họp lại, mới thấy tinh thần tự chủ kì lạ của đấng quân vương trụ cột triều đình. Truyền niềm tin vào quân sĩ, nhân dân bằng thơ ca chứ không bằng chiếu lệnh, Trần Nhân Tông đã thổi hồn vào dân tộc nguồn cảm hứng lãng mạn của một thi nhân và tầm nhìn của một triết nhân trong hoàn cảnh rối bời của chiến tranh, đó chính là sức mạnh của văn chương.
Trần Nhân Tông có niềm tin mãnh liệt vào sự trường tồn vĩnh viễn của dân tộc: Xã tắc lưỡng hồi lao thạch mã, Sơn hà thiên cổ vạn kim âu (Xã tắc hai phen bon ngựa đá, Non sông nghìn thuỡ vững âu vàng). Hai câu thơ đã ghi khắc vào lịch sử niềm xác tín bất di bất dịch về ý thức độc lập tự cường của dân tộc, hai câu thơ này được ông viết ra khi đến bái yết lăng tẩm ông nội, giữa lúc hậu quả chiến tranh vẫn còn ngổn ngang. Hai câu thơ được tạc vào tượng đồng bia đá, mà người viết ra nó đã từng hết sức lo lắng trước những đợt tấn công của quân giặc.
Cùng hào khí yêu nước ấy, tháng tư năm 1285, tướng Trần Nhật Duật đã bắt sống giặc Ô Mã Nhi, tháng 6, Trần Quang Khải thắng tiếp trận Chương Dương... Trong không khí ấy, Trần Quang Khải ngẫu hứng làm bài thơ Tụng giá hoàn kinh sư (Phò giá về kinh). Hai câu thơ mở đầu thể hiện niềm tự hào khi kể lại những chiến công hiển hách của dân tộc: Đoạt sáo Chương Dương độ (đoạt: cướp / giật / tước / lấy đi - Chương Dương cướp giáo giặc); Cầm Hồ Hàm Tử quan (Cửa Hàm Tử bắt quân Hồ). Lời thơ cô đúc, chỉ mười chữ, kể ra hai sự việc cướp giáo giặc, bắt quân thù, thể hiện niềm phấn chấn, hân hoan của tác giả. Thông thường, sau chiến thắng người ta dễ thoả mãn, dễ say sưa với vinh quang, Trần Quang Khải đã nhắc nhở kịp thời về những công việc sau chiến tranh. Thái bình càng cần phải tu trí lực: Thái bình tu trí lực (tu : Sửa sang / xây dựng; trí lực: tận sức / hết sức / dốc sức - Tận sức xây dựng nền thái bình). Vạn cổ thử giang san (vạn cổ: muôn thuở, muôn đời - Núi sông này muôn đời). Niềm tin của tác giả về núi sông vững bền, khi quân dân cả nước một lòng dốc sức xây dựng nền thái bình của đất nước. (Các chú thích theo Từ điển Hán Việt, Hầu Hàn Giang (chủ biên), Bắc Kinh, 1994).
Trước và sau hai cuộc chiến, Trần Nhân Tông còn phải đảm đương sứ mệnh ngoại giao cao cả nhằm giữ yên hòa hiếu hai nước mà không làm mất đi ý chí tự cường dân tộc, sự nghiệp vẻ vang đó được Trần Nhân Tông ghi lại trong những bài thơ tặng và tiễn sứ. Những bài thơ viết với giọng điệu vừa nhún nhường, ôn hòa, vừa kín đáo nhắc nhở tình cảm hòa hiếu hai nước, và trên hết vẫn là giữ gìn hòa bình, tránh nạn binh đao vừa thể hiện bản lĩnh kiên cường, tình cảm khoan hòa đôn hậu của Trần Nhân Tông. Mỗi bài thơ là một lời nhắn gửi, một lời nhắc nhở nhằm giữ yên hòa hiếu hai nước, không động đến binh đao để giữ yên cho muôn dân. Đây chính là sách lược mà sau này Lê lợi và Nguyễn Trãi kế thừa một cách hiệu quả trong cuộc kháng Minh vĩ đại, đánh vào lòng không đánh vào thành – chiến lược mưu phạt tâm công.
Hào khí Đông A đời Trần tiếp tục toả sáng vào thế kỷ XV, khi Nguyễn Trãi cùng Lê Lợi kháng Minh thắng lợi, Nguyễn Trãi thay mặt Lê Lợi viết Bình Ngô đại cáo (1428) – Bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc, áng thiên cổ hùng văn đã khắc thật sâu vào tâm hồn dân tộc một nét văn hoá lớn của văn chương yêu nước Việt Nam.
Bản đại cáo được mở đầu bằng chữ bình – yên ổn, dẹp yên - bình Ngô, chứ không dùng các từ chinh (đánh / dẹp, xuất chinh, chinh phục, đánh chiếm); thảo (đánh dẹp); phạt (đánh dẹp, chinh phạt, thảo phạt), đó cũng là cách thể hiện quan điểm nhân nghĩa của Nguyễn Trãi. Quan điểm nhân nghĩa trong Bình Ngô đại cáo vừa kế thừa tư tưởng nhân nghĩa của Nho giáo vừa làm mới nó phù hợp với hoàn cảnh của đất nước lúc bấy giờ: Nhân nghĩa là an dân, muốn an dân thì phải trừ bạo (bạo ngoại xâm, bạo quan lại nhũng nhiễu dân). Ngọn cờ nhân nghĩa còn thể hiện trong thái độ đối xử với quân thù: Ðem đại nghĩa để thắng hung tàn / Lấy chí nhân mà thay cường bạo. Quan điểm này cùng chiến lược mưu phạt tâm công (đánh vào lòng không đánh vào thành) của Nguyễn Trãi đã giúp sửa sang hoà hiếu hai nước, dập tắt chiến tranh.
Nguyễn Trãi cũng đã thể hiện quan điểm về dân tộc khi xác lập về độc lập, chủ quyền của dân tộc Đại Việt: có văn hiến (văn hóa và hiền tài), có lãnh thổ (núi sông bờ cõi đã chia), có phong tục (phong tục Bắc Nam cũng khác), có truyền thống dựng nước (Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần…), có hào kiệt…Đây là định nghĩa sớm nhất, đầy đủ nhất, tự hào nhất về dân tộc của Nguyễn Trãi. (Mãi đến thế kỷ XX, Stalin mới đưa ra định nghĩa về dân tộc). Cảm hứng trong Bình Ngô đại cáo là cảm hứng về chính nghĩa, về đại nghĩa. Phong cách của Bình Ngô đại cáo là phong cách hoành tráng của Chiếu dời đô, Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ...
Nhịp điệu của Bình Ngô đại cáo là nhịp điệu hùng văn, nhịp điệu sử thi kết hợp nhịp điệu trữ tình. Nhiều lần tác giả thay đổi nhịp: trầm lắng, phẫn khích, hào hùng, dồn dập, sảng khoái... Nhịp điệu nhanh, mạnh khi liệt kê liên tiếp những trận thắng giòn giã của quân ta: Ngày mười tám, trận Chi Lăng, Liễu Thăng thất thế / Ngày hai mươi, trận Mã Yên, Liễu Thăng cụt đầu / Ngày hăm lăm, bá tước Lương minh đại bại tử vong / Ngày hăm tám, thượng thư Lý Khánh cùng kế tự vẫn… Nhạc điệu, từ ngữ, cú pháp tạo nên sự truyền cảm, sự lôi cuốn, sự khẳng khái, sự mãnh liệt... và đó là áng văn hùng tráng của muôn đời.
Những đế quốc phương Bắc từng xâm chiếm nước ta, ôm mộng thôn tính nước Nam, thất bại, đều run sợ trước mảnh đất cong cong hình chữ S là mảnh đất địa linh nhân kiệt. Ngày xưa Cao Biền cũng từng than rằng linh khí ở phương Nam không thể lường được... (Truyện thần núi Tản Viên); sau đó Cao Biền định dùng nghìn cân sắt đúc tượng theo hình dáng thần nhân để làm bùa yểm nhưng y vừa đọc thần chú thì bỗng trời đất mù mịt như đêm tối, mưa gió giật đùng đùng, tượng sắt nạt vụn ra mà tung lên không, Biền sợ hãi muốn về phương Bắc... (Truyện thần sông Tô Lịch và thần chính khí Long Đỗ). Như vậy, tinh thần phản kháng chống ngoại xâm của cả dân tộc ta đã nhập vào khí thiêng sông núi, làm cho kẻ thù phải khiếp sợ.
Truyền thống yêu nước của dân tộc ta là niềm tin tất thắng cho nhân dân ta khi chống trả kẻ thù hung hăng xâm lấn biển Đông. Để chiến thắng, chúng ta hãy noi gương tiền nhân thuở trước, bình tĩnh, mưu lược để giành lại từng tấc đất đã thấm máu cha ông và kiên quyết đuổi những kẻ ngang ngược với niềm xác tín mãnh liệt: Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư (Bọn mày sẽ tự chuốc lấy thất bại).
Viết vì Biển Đông yêu thương!
Huế ngày 15/5/2014Hoàng Thu Thủy