Sau 12 năm đào tạo tiếng Việt cho Lưu học sinh Lào, văn hoá Lào đã sâu đằm trong tâm hồn tôi. Lần thứ ba sang Lào, tôi chỉ có dự định dự đám cưới của em Khongsombath Phommathep ở tỉnh Champasak, và sẽ ghé qua tỉnh Salavan, bởi đi nhờ xe của các anh lãnh đạo các ban ngành tỉnh Salavan đang sang Huế học tiếng Việt 3 tháng.
Salavan với tôi cũng như là cố tri, khoá tiếng Việt đầu tiên tôi làm chủ nhiệm lớp Lưu học sinh Lào là sinh viên của tỉnh Salavan. Giờ vẫn còn một em trở lại học thêm tại Huế, em nhỏ nhắn, hiền lành, ngày xưa làm lớp phó, tên là Vilayvăn. Cuốn sổ lưu bút của các em, tôi vẫn còn giữ, những gương mặt thân quen, những dòng lưu bút xinh xinh vẫn còn nằm trong tủ kí ức của nhà tôi. Nhiều em đã qua trang mạng xã hội facebook liên lạc với tôi, nhiều em đã thành đạt…
Đêm đầu tiên bước chân đến Salavan, nhà anh Sốmchay Bútsahannỵmịt đã chuẩn bị mâm cơm với các món ăn Lào chiêu đãi chúng tôi, dù đoàn chúng tôi về đó đã 19h đêm. Chủ nhân không nói to, không ồn ào, chỉ nói: mời, mời… Bà mẹ vợ của anh Sốmchay nhắc tôi, món xà lách ngon lắm, ăn đi, bà có biết tiếng Việt…
Sang đó, trời se lạnh, trời tối, món ăn hơi nguội, lúc đầu tôi chưa thích lắm, vậy mà chỉ ăn thêm vài ba miếng lại thấy ngon, thấy thích… Những ngày ở Lào tôi chợt nhận ra, người Lào thường ăn thức ăn nguội nguội một chút, chứ không nóng hôi hổi như người Việt Nam.
Ăn xong, về khách sạn đã gần 21h, anh Sốmchay nói với tôi, khoảng nửa tiếng nữa tôi đến đón cô đi đón giao thừa cùng các cán bộ lãnh đạo tỉnh Salavan. Tôi thấy lạ. Thấy tò mò. Vì đây là Tết Tây. Ngày hôm qua khi dạy tiếng Việt cho các em, tôi có dạy qua văn hoá Tết Tây, Tết âm lịch của người Việt Nam và Tết Bunpimay của người Lào. Tôi cứ nghĩ rằng, các nước Đông Nam Á đều giống nhau là chỉ coi trọng tết cổ truyền của dân tộc mình, còn Tết Tây cũng là dịp nghĩ ngơi, du lịch mà thôi. Nên dù rất mệt, vì mới đi qua hơn 200 cây số, với nhiều đoạn đường đèo dốc… tôi cũng cố sửa soạn để đi đón tết theo lời anh Sốmchay.
Đến nơi, tôi thấy không khí Tết rất rõ, trên khoảng đất rộng rãi, có sân khấu, có cây thông lấp loá đèn thật to giữa sân, nhiều người đang lên đó chụp ảnh. Có nhiều bàn bày biện thức ăn, nước uống, có nhiều người đi lại chào nhau, chúc nhau năm mới: Văn đi pi may! Happy New Year!
MC đang giới thiệu các ca sỹ lên hát, danh sách quý vị lãnh đạo lên múa Lăm vông, lời nói cứ nói, lời mời cứ mời, người lên múa cứ lên, người ngồi ăn cứ ăn, từ tốn, nhẹ nhàng, yên lặng. Beer trên bàn thật nhiều, nước uống cũng thật nhiều, thức ăn cũng vậy… Dường như mọi người chỉ quan tâm đến hát, múa, không quan tâm chuyện ăn uống, chào nhau, bắt tay, chắp tay, chụp ảnh…
Tôi cùng anh Sốmchay lên múa Lăm vông trong đoàn của anh Sômlet (Chánh văn phòng Uỷ ban Tỉnh), anh Vixiên (Giám đốc Sở Tài chính Tỉnh), các anh đang múa cùng vợ các anh, nhìn thấy tôi, chắp tay chào, rồi múa tiếp… Xong bài, tôi về chỗ ngồi, lát sau thấy anh Sômlet đưa vợ đến chào tôi. Tôi hết sức mừng rỡ và vinh hạnh, bởi anh là cán bộ lãnh đạo của tỉnh, một vị trí khá quan trọng, mà anh vẫn giữ lễ nghĩa với tôi – một giảng viên có tham gia giảng dạy tiếng Việt cho anh trong 3 tháng, từ năm ngoái. Anh có lời mời tôi đến nhà anh chơi, thật là tình cảm… Rồi anh Akhom (Phó Giám đốc sở Y tế tỉnh Salavan) cũng đến chào tôi, mời luôn chúng tôi ăn sáng vào sáng mai.
Hết điệu múa Lăm vông là điệu múa Baxlôp (không biết tôi viết có đúng không, vì chỉ nghe nói vậy), lúc này tôi không múa được, thật tiếc, ở lớp các em vẫn múa mà không chịu tập, giờ chỉ biết đứng nhìn, điệu múa này nhiều người tham gia hơn, tính cộng đồng cao hơn… Rồi nhiều người đến bắt tay chào, đây là Giám đốc của anh Xaysana, kia là Giám đốc của anh Bunmy… Dù không nhớ hết, nhưng tôi trân trọng tình cảm và những cái bắt tay, lời chúc năm mới của các anh. Các anh quan tâm đến cán bộ của mình thì mới bắt tay cô giáo dạy tiếng Việt, các anh có tình cảm thì mới rời chỗ để chào chúng tôi. Họ không ngồi yên, bệ vệ, mà di chuyển, mà hát múa, chúc nhau những lời chúc tốt đẹp trong thời khắc chuyển giao của đất trời, thời gian. Người đến cứ đến, người đi cứ đi, người uống cứ uống, người ăn cứ ăn, chỉ nghe tiếng rì rào, chỉ nghe tiếng chuyện trò mà không nghe tiếng la, không nghe tiếng hét. Beer đầy bàn, nhưng không rót, không ép, không đổ… uống được thì uống, không thì thôi, thấy mệt thì về. Tôi có ăn một cái bánh cuốn, ngon chi lạ. Ăn rồi mà vẫn chưa nhận ra trong cái bánh cuốn đó có gì mà vừa giòn, vừa ngọt, vừa ngon… Cái ngon của món ăn người Lào thường bắt đầu từ món chẻo (nước chấm), nó ngòn ngọt, nó thơm thơm, chấm cái bánh cuốn vào nó thật vừa, thật hợp… Tôi có nhìn thấy nhiều anh mặc áo có dòng chữ Police, nhưng họ đứng vòng ngoài, di chuyển tới lui, lặng lẽ, không lên gân, không gây sự chú ý…
Gần đến 24h, chúng tôi ra về, vì cảm nhận đêm Giao thừa ở xứ bạn như thế là vừa đủ, dù không có đồng hồ đếm ngược, không có pháo hoa, nhưng những con người nơi đây đã cùng nhau trong những thời khắc chuyển giao của đất trời từ năm cũ sang năm mới là quá văn minh, cùng nhau trong những điệu múa, điệu nhảy, nhịp nhàng, uyển chuyển mà không vung vẩy, không chứng tỏ là mình đang múa, đang nhảy, dường như chuyện múa nhảy với họ giản dị, bình thường như cơm ăn, nước uống hàng ngày vậy. Người nối người, mặt đối mặt, mỉm cười, nhìn nhau, hay nhìn vào khoảng không trước mặt đều bâng quơ, không ngắm hay nhìn chằm chằm. Nhìn vào cái tay họ múa, cái cách họ đi mới biết họ múa bằng tâm, chứ không múa để chứng tỏ mình mềm, mình dẻo… Bởi thế, nếu không biết cảm, không biết nhận ra nét văn hoá đó, nhiều khi bạn cũng đi múa Lăm vông mà cố chứng minh mình là múa dẻo, múa đẹp, cố vung vẩy thì sẽ thấy mình chỏi ngay giữa đám đông. Những bước nhảy, những điệu múa êm đềm, lặng lẽ mà nặng tình của người Lào.
Chúng tôi ở Salavan một ngày, vừa đi du lịch phong cảnh, vừa dự tiệc chúc mừng năm mới ở nhà anh Suđon. Khu du lịch sinh thái Talot vừa hoang sơ vừa thoáng đãng, chúng tôi vừa cưỡi voi, vừa đến thác nước, ngắm cảnh rồi chụp ảnh. Đến trưa, về nhà anh trai của Suđon dự liên hoan. Đến nơi, trên những cánh đồng khô chân rạ, là những chiếc xe ô tô, nhìn khoảng gần 20 chiếc, tôi cứ ngỡ đông người dự lắm, nhưng thực ra khoảng 30 người, nghĩa là mỗi người đến dự đều tự chạy một chiếc ô tô đến, có cảm giác như ở Lào xe ô tô nhiều hơn xe máy. Trên bãi đất trống là một nhóm người đang chặt xương bò, một nhóm người khác đang chơi bi sắt, bên trong ngôi nhà hai tầng, một phía thềm nhà là các chị phụ nữ đang chế biến thức ăn, căn phòng tầng một – nói là căn phòng, nhưng thực ra 4 phía trống trải – kiểu nhà sàn là các ca sỹ, nhạc công vừa đàn vừa hát. Khách nào muốn lên hát cũng được. Thấy đoàn chúng tôi đến, họ bắt đầu đặt bàn, đặt ghế… Rồi các món ăn lần lượt mang ra, những món ăn được chế biến từ nguyên một con bò, tôi vừa thấy lạ, vừa tò mò, vừa ăn thử tất cả các món. Món lạp bò có màu đỏ, nhìn như thịt còn sống, nhưng có thứ lá cây chát chát ăn kèm, nên ăn mà không sợ, rồi món canh bưng ra, tôi mới nhìn qua nghĩ ngay đến món thắng cố của người H’Mông, ăn vào thấy nó ngọt, nó ngon, có vị hơi đăng đắng một chút. Món gỏi bò là đậm đà hơn cả và ăn với xôi rất hợp. Người Lào chủ yếu là ăn bốc, chúng tôi cũng ăn bốc, lâu lâu lại nhớ đến đôi đũa, cầm lên ăn, lại thả xuống và ăn bốc. Beer và rượu được rót vào từng ly, ăn và uống từ tốn, không la, không hét, không cổ vũ zô, zô… như người Việt Nam. Ăn có mời, nhưng không khách sáo, không mời lui mời tới, ai ăn cứ ăn, ai chơi cứ chơi, ai hát cứ hát, ai ăn no cứ thế đứng dậy, không cần xã giao. Ăn xong thì múa Lăm vông, đi lại nhẹ nhàng, từ tốn, mắt cứ nhìn với bạn múa, nhưng thực ra là cái nhìn bâng quơ…
Rời bữa tiệc, chúng tôi về lại khách sạn đã 14h chiều, mà nghe các anh dặn, 18h tối sẽ có cuộc liên hoan, gặp gỡ đông đủ cả lớp. Anh Bunmy, anh Thôngxay chở vợ và con cách đó hơn 40 km đến để chào chúng tôi và cùng dự tiệc. Các anh trong lớp đều mang vợ đến dự tiệc, các anh Giám đốc, lãnh đạo của các học viên cũng đến tham dự. Đặc biệt, chúng tôi được gặp lại anh Vixiên, Giám đốc Sở tài chính tỉnh Salavan (học tiếng Việt từ năm trước) cũng đưa vợ đến dự liên hoan. Nhìn cách tiếp đón của các anh, chúng tôi nhận ra một nét văn hoá rất đẹp của người Lào là khi tiếp khách, cả gia đình họ đều tham dự, các bà vợ thật khiêm nhường, họ ngồi về một phía, để cho chồng của họ dễ giao lưu, chuyện trò với khách khứa. Gặp gỡ các lãnh đạo của các học viên, chúng tôi cũng nhận ra là họ rất thương yêu cán bộ của mình, nên đã tham dự bữa tiệc để tiếp đón chúng tôi.
Vẫn cách ăn uống từ tốn, vẫn vừa ăn, vừa hát, vừa múa… đói thì ăn, nhưng không quá chú trọng đến chuyện ăn, không cho là “một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp”, nên cách ăn uống, tiếp xúc của họ cứ nhẹ nhàng, thoải mái…
Nét văn hoá thầy trò cũng là điều mà tôi cảm nhận và thầm nghĩ, sao ở Việt Nam ảnh hưởng Nho giáo sâu sắc hơn, vì ở Lào chủ yếu là ảnh hưởng văn hoá Phật giáo, người Việt Nam bao giờ cũng nhắc đến các chữ: Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín… mà e chưa bằng họ. Buổi ăn cơm ngày cuối cùng trước khi các anh về Lào, tại nhà em Lộc, tôi có nói với anh Sốmchay: Bữa ni các anh học xong rồi, chúng ta là bạn. Anh Sốmchay nói ngay: Cô dạy tôi một ngày là mẹ của tôi một đời. Tôi giật mình. Hèn gì, khi đưa các anh đi Quảng Bình, anh Bunmy cứ nằng nặc mời tôi sang xe của các anh, mời tôi ngồi ghế trước. Từ Việt Nam sang Lào và trở về cũng thế, các anh cứ bắt tôi ngồi trước, các anh vừa đi vừa tranh thủ học tiếng Việt.
Các lớp LHS Lào sang học tiếng Việt tại Huế cũng vậy, lúc nào cũng cúi đầu, chắp tay chào thầy cô. Cách đây 12 năm, khoá tiếng Việt đầu tiên có em Seng Alun (em bây giờ làm ở Sở Ngoại vụ tỉnh Salavan), về Lào nghỉ tết sang trễ học mấy ngày, em tự cạo trọc đầu để xin lỗi thầy cô. Chữ lễ trong trường học thật đáng trân trọng.
Chúng tôi đi sang Lào lần này, mục đích là dự đám cưới em Khongsombath Phommathep ở tỉnh Champasak, tôi thật may mắn khi chứng kiến từ đầu đến cuối phong tục, tập quán cưới xin của người Lào, từ nhà gái đến nhà trai, từ bữa tiệc gia đình đến bữa tiệc ở nhà hàng sang trọng….. Câu chuyện này, chắc phải viết thêm một bài báo nữa. Vì ở bài báo này chỉ muốn nói rằng: Hình như tôi đã phải lòng văn hoá của đất nước Triệu Voi!
Hoàng Thu Thủy