NHỮNG VẦN THƠ CỦA THỜI HOA LỬA
Kỷ niệm ngày sinh viên Việt Nam 9-1
1. Ngày 9-1-1950, ở Sài Gòn nổ ra một cuộc biểu tình lớn của hàng ngàn học sinh kéo đến dinh của thủ tướng bù nhìn Trần Văn Hữu, đòi phải thả ngay các học sinh, sinh viên bị bắt. Trần Văn Ơn (sinh năm 1931) là một thành viên trong Ban lãnh đạo sinh viên, học sinh trong cuộc đấu tranh này. Và khi bọn giặc nổ súng vào đoàn biểu tình. Nhiều em học sinh ngã gục trước những làn đạn khủng bố. Trần Văn Ơn bị trúng đạn trong lúc đang cùng một người bạn khiêng nữ sinh Tạ Thị Thâu của Trường Gia Long bị bọn cảnh sát ngụy đánh ngất. Anh hy sinh vào lúc 15 giờ 30 phút chiều ngày 9-1-1950. Đám tang Trần Văn Ơn, trong thực tế đã trở thành cuộc biểu dương lực lượng của đồng bào yêu nước Sài Gòn - Chợ Lớn, có giá trị làm thức tỉnh mạnh mẽ tinh thần dân tộc. Điếu văn của đại biểu học sinh, sinh viên có đoạn: "Chúng ta sẽ không bao giờ quên được ngày 9 tháng 1, ngày mà anh Ơn và các bạn học sinh, sinh viên đã vui lòng đem xương máu, sinh mạng của mình đổi lấy tự do cho các bạn bị giam cầm. Tinh thần bạn Trần Văn Ơn bất diệt!”. Từ đấy, ngày 9-1 được lấy làm Ngày kỷ niệm của học sinh, sinh viên tranh đấu trong toàn quốc hàng năm.
2. Tiếp bước Trần Văn Ơn, ở Huế đã có những anh hùng liệt sĩ ngã xuống trong phong trào học sinh sinh viên, và các anh đã để lại những vần thơ cháy bỏng khát khao, mơ ước, nhớ nhung. “Ta đi không kịp ẵm con thơ / Không kịp về thăm người vợ chờ”, đó là những vần thơ của liệt sĩ Trần Quang Long, người sinh ra tại Huế (6-2-1941), học Trường Quốc Học và sau đó tốt nghiệp khoa văn ĐH Sư phạm Huế. Là “chủ tịch sáng lập Hội Sinh viên sáng tác thuộc Tổng hội Sinh viên Sài Gòn, anh đã chủ trương, biên tập với nhiều tờ báo của phong trào đấu tranh như: Sinh Viên Huế, Đất Mới, Dân (Huế), Sinh Viên Sài Gòn hoặc cộng tác với các tờ báo ở Sài Gòn như: Tin Văn, Đất Nước...” Anh hi sinh khi mới 27 tuổi, và bài thơ Thưa mẹ, trái tim của anh đã neo đậu trong lòng biết bao thế hệ thanh niên, học sinh, sinh viên Việt Nam “Thưa mẹ,... / Mẹ ơi con của mẹ / Chỉ còn có trái tim / Sẽ sống nhờ trái tim / Sẽ chết nhờ trái tim / Là tâm hồn con đó / Là vần thơ con đây / Bài học i tờ ngày xưa mẹ dạy / Con viết thành lời đắng cay / Dòng máu anh hùng cha con / kháng Pháp / Con luyện thành lời hăng say”. Biết bao nhà lý luận luận bàn về thi ca thường bàn về tứ thơ, vần thơ, nhịp thơ.... hẳn khi đọc những vần thơ này của nhà thơ Trần Quang Long sẽ nhận ra nhịp của bài thơ là nhịp của trái tim, tứ của bài thơ cũng từ trái tim, trái tim người cộng sản chứa đựng biết bao nhiệt huyết, biết bao quyết tâm và trên hết vẫn là lòng yêu nước sục sôi, là khí thế của cái thời “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước / Mà lòng phơi phới dậy tương lai”. Nếu anh hùng Nguyễn Văn Trỗi hùng hồn trước mặt quân thù “Còn thằng Mỹ không ai còn hạnh phúc nổi cả”, anh hùng Lê Mã Lương tuyên bố “cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến đánh quân thù”. Thì người chiến sĩ Trần Quang Long, cây bút Trần Quang Long xác định được vị trí của mình “Con sẽ vót nhọn thơ / thành chông / Xuyên vào gan lũ giặc / Con sẽ mài thơ như kiếm sắc / Chặt đầu văn nghệ tay sai / Trả thù cho cha / rửa hờn / cho nước / Cho con ngửng đầu / nhìn thẳng tương lai / Nếu thơ con bất lực / Con xin nguyện trọn đời / Dùng chính quả tim làm / trái phá / Sống chết một lần thôi”... Dữ dội và quyết liệt là khí thế là niềm tin của cái thời biết bao thế hệ sinh viên học sinh sẵn sàng xếp bút nghiên lên đường đánh giặc. Quyết tâm và nguyện thề là xu hướng văn thơ của thế hệ những nhà thơ đứng trong chiến hào cầm bút. Sống chết không còn ranh giới, không còn ngập ngừng, không còn đắn đo, không còn chọn lựa chỉ một mục đích thẳng tiến “quyết tử cho Tổ Quốc quyết sinh”. Đọc những vần thơ hào hùng, quyết liệt lòng rộn rã một niềm tin vào thế hệ trẻ Việt Nam, lực lượng tiên phong của Đảng, sức mạnh hào hùng của dân tộc. Những vần thơ thắp lửa cho mai sau, sáng chói một niềm tin bất tử “Con sẽ chết như những người đã chết và những người / đang chết / Nhưng trái tim con / Sẽ đời đời bất diệt / Dẫu đã nổ tan tành / Dẫu đã khô máu hết / Vì mẹ ơi con biết / Trái tim con là thơ / Trái tim con là rừng là núi / Là lúa là ngô là cam là bưởi / Là quá khứ, là tương lai / Là khổ đau, là hạnh phúc / Là đấu tranh, là bất khuất / Trái tim con là của con người / Viết lịch sử mình trên mặt đất / Bằng từng nét máu thắm tươi”. Người ta thường nói đến cái bi trong văn học cách mạng là mâu thuẫn giữa khát vọng sống của cá nhân và các giá trị cuộc sống siêu cá nhân mà cá nhân đó thừa nhận, tức là ý thức về bản thân sự hi sinh (Pospêlốp)... và cái buồn cũng nên quan niệm theo Huygô là một sự hồi ức, vô thức bất chợt, là ý thức thời gian và nơi đó con người tìm thấy ý nghĩa sự sống trong Tổ Quốc, nhân dân, trong tương lai tươi sáng, trong lẽ sống vĩnh cửu. Vì lẽ đó cái đẹp cũng gắn liền với ý niệm về Tổ quốc trường tồn, mọi cá nhân hữu hạn sẽ bất tử trong tổ quốc của mình. Bài thơ Thưa mẹ, trái tim của nhà thơ Trần Quang Long thật đúng nghĩa như vậy.
Mai có hoà bình là bài thơ cuối cùng của Ngô Kha trước khi bị bắt và bị thủ tiêu. Ngô Kha sinh năm 1935, tại làng Thế Lại Thượng (Huế). Sau khi đậu thủ khoa khóa I Đại học Sư phạm Huế (1958-1959), rồi tốt nghiệp cử nhân Luật khoa Đại học Luật khoa Huế, anh đã dạy văn ở trường Quốc học, Hàm Nghi, Nguyễn Du, Hưng Đạo. Anh bị bọn mật vụ bắt cóc và sau đó thủ tiêu vào ngày 28 Tết âm lịch năm 1972. Kỷ niệm ngày truyền thống sinh viên học sinh 9/1/2006 Hội Văn nghệ Thừa Thiên - Huế, Phòng Văn hóa - Thông tin Huế, Nhà Văn hóa TP Huế và Công ty văn hóa Phương Nam tổ chức ra mắt cuốn Ngô Kha - ngụ ngôn của một thế hệ (NXB Thuận Hóa) tại 22 Trương Định, Huế. Cuốn Ngô Kha - ngụ ngôn của một thế hệ, ngoài phần văn xuôi và số bài viết của các tác giả nêu trên còn in phần thơ Ngô Kha gồm: Hoa cô độc, Ngụ ngôn của người đãng trí, Trường ca hòa bình, Những bài thơ rời. Và số tiền nhuận bút chuyển giao cho Thành đoàn Huế để thành lập Quỹ học bổng Ngô Kha, sẽ được tổ chức trao hằng năm vào dịp kỷ niệm Ngày truyền thống học sinh, sinh viên (9.1) cho các học sinh, sinh viên tài năng của Huế.
Quỹ học bổng Ngô Kha sẽ có ý nghĩa hơn, nếu những thế hệ học sinh sinh viên Việt Nam hôm nay hiểu thêm những khát vọng cháy bỏng của một thời tranh đấu của biết bao thế hệ sinh viên học sinh ở Huế “Tin em trao về hồng như nụ chín / Mai có hoà bình khác thể yêu đương / Đường dù ngại đi rừng chen lớp lớp / Nhớ nhau thì về cho kịp trời thu”. Mùa thu tháng tám trở thành điểm tựa, nỗi ước ao của những sinh viên xuống đường. Tên tuổi Ngô Kha là ngọn lửa quy tụ những sinh viên học sinh xuống đường tranh đấu và cũng trở thành nỗi ám ảnh của quân thù. Thầy giáo Ngô Kha và nhà thơ Ngô Kha là một, anh xuất hiện như một ngọn cờ, hô hào bãi khóa, xuống đường và khởi thảo các bản tuyên ngôn, tuyên chiến với chế độ Mỹ ngụy. Tứ thơ trời thu – hoà bình trong bài thơ Mai có hoà bình trở thành điểm tựa cho xúc cảm, cho ước mơ, cho hy vọng, cho niềm tin của cái tôi nhà thơ; nên nếu thơ cần vần điệu thì ở bài thơ này vần điệu chính là tiếng lòng khát khao của những thế hệ thanh niên học sinh phải sống mái với quân thù trực diện. “Người rời đỉnh non cao tì dốc núi / Một bước về xuôi một quyết đổi đời / Nếm mật Trường Sơn nằm gai chiến sĩ / Cơm áo hoà đồng gánh cả đôi vai” Người lính sinh viên phải trải qua nhiều thử thách, thử thách từ tâm trạng, từ gian khổ, từ hiểm nguy và rồi họ đã chiến thắng bản thân mình để dấn thân theo Cách mạng, vì “khi Tổ quốc cần, đã có chúng con” “Con nước phù sa đắp bồi thành luỹ / Giọt máu kiên cường nuôi lúa đồng hoang / Em vẫn cày công trên đường kháng chiến / Mai có anh hùng chí hướng bền gan” Câu thơ “Mai có anh hùng chí hướng bền gan” như một lời thề mà cũng như là dự cảm. Dự cảm về một chuyến đi xa, về sự hi sinh của anh cho đất mẹ Việt Nam, những vần thơ tràn đầy niềm tin và tự nguyện.
3. “Ta đã đi qua những năm tháng không ngờ / Vô tư quá để bây giờ xao xuyến / Bèo lục bình mênh mang màu mực tím / Nét chữ thiếu thời trôi nhanh như dòng sông... / Ta lớn lên bối rối một sắc hồng / Phương cứ nở hoài hoài như đếm tuổi / Như chiều nay, một buổi chiều dữ dội / Ta nhận ra mình đang lớn khôn...” Những câu thơ mở đầu trong trường ca Mặt đường khát vọng của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm vừa diễn tả tâm trạng cảm xúc của học sinh, sinh viên Việt Nam thời “áo trắng xuống đường” vừa là lời nhắc nhở với bao thế hệ học sinh, sinh viên hôm nay. Cuộc sống hôm nay không còn cái “dữ dội” của chiến tranh, không còn tâm trang “bối rối” vì không tìm ra phương hướng cho đời mình; noi gương các anh hùng thời chống Mỹ, các thế hệ học sinh sinh viên phải hun đúc cho mình lòng quyết tâm, say mê với khoa học, nhiệt tâm với mọi người, sống trong sáng lành mạnh... để xứng đáng với ngày truyền thống vẻ vang của học sinh, sinh viên Việt Nam – ngày Mồng Chín tháng Giêng.
Hoàng Thị Thu Thủy