Triết lý giáo
dục là một nội dung quan trọng cần được quan tâm trong quá trình thực hiện đổi
mới giáo dục và đào tạo ở Việt Nam. Vấn đề triết lý giáo dục đã được bàn đến
trong nhiều hội thảo khoa học. Các nhà khoa học đã đặt ra nhiều câu hỏi: Việt
Nam có triết lý giáo dục hay không?
Giáo sư Phạm
Minh Hạc đã nghiên cứu, phân tích và chia ra thành bốn nhóm câu trả lời: “Nhóm
thứ nhất, giáo dục nước nhà thiếu hẳn một triết lý, thậm chí có người cho rằng
chúng ta chưa bao giờ có triết lý giáo dục; nhóm thứ hai, chúng ta có triết lý
giáo dục, nhưng triết lý đó sai, hay nói nhẹ hơn, triết lý đó không phù hợp với
thực tế nước mình; nhóm thứ ba, chúng ta có minh triết giáo dục, đã được vận
dụng tài tình vào hoàn cảnh nước ta và đã đem lại những kết quả tốt đẹp hiển
hiện trong cuộc sống hầu hết mọi người đều có thể cảm nhận được; nhóm thứ tư,
rõ rệt nhất, từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, dưới chế độ Dân chủ Cộng hòa,
nước nhà có triết lý giáo dục có hệ thống, từng bước hoàn chỉnh, toàn dân với
nòng cốt là đội ngũ nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, đã tích cực thực hiện suốt hơn nữa thế kỷ, đã đạt kết
quả tốt đẹp, nhưng đến nay cần xem xét, bổ sung cho phù hợp với thời đại, hoàn
cảnh mới” [1, tr.15 - 16].
Theo đó,
có thể nói, khái niệm triết lý giáo dục có nhiều cách tiếp cận khác nhau. Ở
phương Tây, triết học giáo dục hay triết lý giáo dục đều có một cách hiểu như
nhau. Ở Việt Nam, hai thuật ngữ này có sự khác biệt. Tác giả Đặng Thành Hưng
cho rằng: “Triết học giáo dục là ngành hay lĩnh vực nghiên cứu khoa học, còn
triết lý giáo dục là sản phẩm của tư duy triết học, hoặc của nghiên cứu triết
học giáo dục.” [2, tr.8 ]; Nguyễn Bá Thái nhận định: “Triết lý giáo dục chính
là triết học trong giáo dục, là việc ứng dụng các lý thuyết triết học vào trong
giáo dục; triết lý giáo dục là một học thuyết triết học về giáo dục, với một
tên gọi mang đặc trưng phương pháp luận của lý thuyết đó” [2, tr.8]. Phạm Văn
Linh nhận định: “Triết học giáo dục đã có một nền tảng khái niệm và lý luận
vững chắc như triết học nói chung. Về cơ bản, có thể coi triết học giáo dục,
như một “cơ sở dữ liệu” với rất nhiều tư tưởng giáo dục vừa bổ sung, vừa đối
nghịch nhau, tạo thành các triết thuyết khác nhau trong giáo dục” [2, tr.9]; “triết
lý giáo dục được thể hiện thông qua những tuyên bố ở tầm quốc gia về sứ mệnh,
vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của giáo dục. Các tuyên bố như vậy, ở từng
quốc gia được trình bày trên những văn bản pháp lý quan trọng của nhà nước như
Hiến pháp, Luật giáo dục, chương trình cải cách giáo dục” [2, tr.125].
Theo tác giả, triết lý giáo dục
là sợ chỉ đỏ xuyên suốt dẫn đường cho người làm giáo dục đi đúng hướng, là kim
chỉ nam của chiến lược phát triển giáo dục. Nghĩa là triết lý giáo dục có tác
dụng chi phối, tác động toàn diện tới các hoạt động giáo dục, môi trường giáo
dục, nội dung giáo dục, chương trình giáo dục, phương pháp giáo dục thậm chí
tác động tới cả xã hội tương lai vì giáo dục chính là hoạt động xây dựng kiến
tạo xã hội tương lai. Thực ra, nội dung triết lý giáo dục Việt Nam đã có từ rất
lâu trong lịch sử khi nói đến vị trí, vai trò của giáo dục toàn diện cha ông ta
có câu: “Tiên học lễ, hậu học văn”. Ở đây, có thể hiểu lễ nghĩa của một con
người cần phải học đầu tiên sau đó mới học chữ quan điểm này tương tự như quan
điểm của Nho giáo khi cho rằng: Nhân, lễ, nghĩa, trí, tín là những phẩm chất mà
con người phát triển toàn diện cần phải có. Hay khi nói đến nội dung của giáo
dục cha ông ta xác định vị trí quan trọng của người thầy giáo như: “Bán tự vi
sư, nhất tự vi sư”; “Mấy ai là kẻ không thầy,
thế gian thường nói đố mày làm nên”; “Muốn sang phải bắt cầu Kiều, muốn
con hay chữ phải yêu kính thầy”….Giáo dục là một quá trình cần phải trau dồi và
rèn luyện, vì thế phương pháp giáo dục mà ông cha ta nói đến đó chính là: “Muốn
biết phải hỏi, muốn giỏi phải học”; “Dốt đến đâu, học lâu cũng biết”; “Người
không học như ngọc không mài”; “Ở đây gần bạn gần thầy, có công mài sắt có ngày
nên kim”.
Như vậy, có
thể khẳng định ở Việt Nam có triết lý giáo dục và triết lý giáo dục Việt Nam
chính là đường lối, quan điểm, chính sách phát triển giáo dục của Đảng Cộng sản
Việt Nam, là sự kế thừa những giá trị văn hóa của dân tộc và tinh hoa của thời
đại. Triết lý giáo dục trong giai đoạn hiện nay chính là quan điểm của Đảng được
đề ra trong Nghị quyết 29 – NQ/TW “Về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và
đào tạo đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều kiện kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế”. Trong
những năm qua, nền giáo dục Việt Nam đã có những thành tựu và bước phát triển
đáng ghi nhận, góp phần quan trọng vào việc nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài phục vụ công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ
quốc. Tuy nhiên, cùng với những thành tựu đạt được thì nền giáo dục ở nước ta
vẫn còn nhiều yếu kém, bất cập. Để khắc phục và giải quyết những vướng mắc và
tiếp cận với nền giáo dục của thế giới thì không còn con đường nào khác giáo
dục Việt Nam phải tiến hành đổi mới trong thời gian sớm nhất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Minh Hạc
(2011), Triết lý giáo dục thế giới và Việt Nam, Nxb. Giáo dục Việt
Nam, Hà Nội.
2. Phạm Văn Linh
(2015), Định hướng chiến lược, giải pháp
đột phá nhằm đổi mới căn bản, toàn
diện giáo dục và đào tạo Việt Nam, Nxb. Chính trị Quốc gia. Hà Nội.
Nguyễn Thủy Tiên
Khoa Giáo dục nghề nghiệp