Thu về ai biết ai hay, lá vàng trong gió rụng bay lối đầy, nhìn theo ngọn gió heo may, bâng khuâng một thuở đong đầy nhớ nhung…
Một chút heo may, một chút trời se lạnh, biết là mùa thu đang gõ cửa mỗi nhà. Cứ ngỡ rằng chỉ có người Hà Nội mới được sở hữu một mùa thu trọn vẹn từ trong thiên nhiên, từ trong cảm nhận, từ trong tâm tưởng… nhưng không ngờ những người con đất Việt tuy ở xa Hà Nội vẫn đón thu về trong những rung cảm thiêng liêng.
Bài thơ Có phải em mùa thu Hà Nội của nhà thơ Tô Như Châu được viết vào tháng 8 năm 1970, khi ở Đà Nẵng đang bời bời bom đạn, cảm hứng về mùa thu Hà Nội được khơi gợi từ cuộc gặp gỡ giữa nhà thơ với cô gái Hà Nội, và tứ của bài thơ làm sống lại cả lịch sử hào hùng của cha ông thuở trước: Có phải em mùa thu Hà Nội / Ngày sang thu lót lá em nằm / Bên trời xa sương tóc bay / Hà Nội ơi em có hay / Quê hương thần thoại hiển linh sông núi / Nắng thu muôn màu rực rỡ hồn anh.
Tác giả bài thơ Có phải em mùa thu Hà Nội không mấy ai biết đến mà chỉ biết tên nhạc sĩ của ca khúc Có phải em mùa thu Hà Nội là Trần Quang Lộc, và cho đến khi qua đời (2002), nhà thơ Tô Như Châu cũng chưa một lần được đến thăm Hà Nội.
Chưa đến thăm Hà nội, chưa một lần thưởng thức mùi hoa sữa ngọt ngào trên từng ngõ phố mà nhà thơ Tô Như Châu đã viết nên những vần thơ về mùa thu Hà Nội da diết nhớ thương: Tháng tám mùa thu / Lá khởi vàng em nhỉ / Từ độ người đi / Thương nhớ âm thầm. Đúng là có nhiều khi chính thi sĩ cũng không lý giải nổi những câu thơ viết ra như có bút lực, thần thái của người cầm bút. Câu thơ Lá khởi vàng em nhỉ, mới đọc lên có cảm giác là một câu thơ đưa đẩy cho ý thơ, tứ thơ, nhưng đọc kĩ mới thấy cái mới mẻ, rung động của chính nhà thơ, hỏi em, hỏi anh, hỏi chính tâm trạng bâng khuâng, xao xuyến của nhà thơ khi hướng về Hà Nội.
Hình tượng thơ đi từ xa đến gần, từ câu hỏi nhẹ nhàng ý tứ Tháng tám mùa thu / Lá khởi vàng em nhỉ đến cảm nhận về màu sắc, ánh sáng, đường nét thu: Chiều vào thu nghe lời ru gió / Nắng vàng lơ lửng ngoài hiên / Mắt nai đen màu thu Hà Nội / Nghe lòng ấm lại tuổi phong sương / May mà có em cho đường phố đông vui / May còn chút em trang sức sông Hồng / Một sáng vào thu bềnh bồng hương cốm / Đường Cổ Ngư xưa bắt bước phiêu bồng.
Khi biết nhà thơ chưa một lần đặt chân đến Hà nội, đọc lại những câu thơ này mà giật mình, câu nói của Đỗ Phủ quả không sai “Ngữ bất kinh nhân, tử bất hưu” (viết mà không làm cho người ta sợ, chết không nhắm mắt). Rung cảm trước thu đến như thế nào thì mới viết nên những vần thơ có hồn, có nhạc, có cả tâm hồn người viết trải trên từng con chữ. Viết được như thế mới thấy người viết khao khát tình thu đến thế nào, nên sau những câu thơ tả thu là những câu thơ tự tình, một lối tự tình trong tâm tưởng, mượn đối tượng trữ tình là em cho cảm xúc dễ tuôn trào: Thôi thì có em đời ta hi vọng / thôi thì có em sương khói môi mềm / Có phải em mùa thu Hà Nội / Nghe đâu đây lá ướt và mi xanh. Đọc những hư từ thôi thì lặp đi lặp lại mới thấy con người nhà thơ thật tội nghiệp, thèm thu, nhớ thu Hà Nội đến nỗi đành xem như cuộc gặp gỡ tình cờ với cô gái Hà Nội đã là niềm an ủi, hi vọng, ước ao.
Khao khát và ước ao chắp cánh cho tứ thơ gợi nhắc về lịch sử oai hùng của nghìn năm Thăng Long – Đông Đô Hà Nội, và rồi: Hôm nay mùa thu / Gió về là lạ / Bỗng xôn xao con tim lời lá / Bỗng xôn xao rơi vàng tiếng gọi / Lệ mừng gặp nhau ngàn phím dương cầm / Có phải em mùa thu Hà Nội / Ngày sang thu lót lá em nằm / Bên trời xa sương tóc bay / Hà Nội ơi em có hay / Quê hương thần thoại hiển linh sông núi / Nắng thu muôn màu rực rỡ trong hồn anh.
Có người từng nói, ngày nào anh còn ước mơ, ngày ấy anh còn tồn tại. Nhiều khi chỉ một tứ thơ, một bài thơ cũng gợi lên niềm khao khát và ước mơ trong lòng độc giả.
Đã có biết bao thi nhân, nhạc sĩ viết về mùa thu Hà Nội, cùng một tiêu đề Mùa thu Hà Nội mà có đến ba bài thơ của ba tác giả: Chu Thăng, Thụy Đông, Phan Thị Thanh Nhàn. Đọc thơ của cả ba tác giả mới thấy cái hạnh phúc của người Hà Nội được cảm thu ngay trong lòng Hà Nội: Mùa thu về đó em ơi / Lá vàng rơi, lá càng rơi xạc xào (Chu Thăng); Hà Nội tháng mười, Hà Nội vào thu / Hương hoa sữa ngọt ngào một góc phố (Thụy Đông); Lâu lắm rồi mới ra đường buổi tối / Hà Nội vào thu quá dịu êm (Phan Thị Thanh Nhàn)… Những câu thơ được các tác giả viết ra đầy tự tin, vì họ đang đứng trong lòng Hà Nội, đang cảm nhận mùa thu trong từng hơi gió thoảng, trong từng lá vàng rơi. Còn nhà thơ Tô Như Châu xa Hà Nội gần nghìn cây số, trong đạn bom mà rung động với thu Hà Nội bắt đầu từ cái nhìn rụt rè: Lá khởi vàng chưa nhỉ? Đến tiếng thở dài tiếc nuối: Thôi thì có em đời ta hi vọng / Thôi thì có em sương khói môi mềm; đến niềm rạo rực, bâng khuâng được đón ngày sang thu anh lót lá em nằm.
Ngày thơ năm 2010, tại Văn Miếu, Hà Nội trong phần trình diễn thơ có chọn năm bài thơ tiêu biểu nhất để đọc trước độc giả, thì có bài thơ Có phải em mùa thu Hà Nội của Tô Như Châu. Thơ ông cũng có duyên với âm nhạc, không chỉ nhạc sĩ Trần Quang Lộc, nhạc sĩ Nguyễn Tất Vịnh còn phổ nhạc với hai bài thơ Phố em nội cỏ, Có một ngày như thế của ông.
Rung cảm trước chút gió heo may, chút trời se lạnh, chút lá vàng rơi, cứ ngỡ sẽ viết ra những cảm xúc của mình trước tình thu, cảnh thu, vậy mà bài thơ Có phải em mùa thu Hà Nội gợi duyên cho bài viết này. Âu cũng là chút lòng tri âm với thi nhân tài hoa Tô Như Châu.
Huế 8/9/2011
Hoàng Thị Thu Thuỷ