Trần Đăng Khoa (sinh ngày 24/4/1958,) quê ở làng Trực Trì, xã Quốc Tuấn, Nam Sách, tỉnh Hải Dương, là nhà thơ, nhà báo, biên tập viên Tạp chí Văn nghệ Quân đội, Hội viên Hội nhà văn Việt Nam, Trưởng Ban văn nghệ đài tiếng nói Việt Nam, Giám đốc hệ truyền thanh có hình VOVTV…
Từ nhỏ anh được gọi là thần đồng thơ văn, bài thơ đầu tiên Con bướm vàng được viết khi anh mới 8 tuổi. Tập thơ Góc sân và khoảng trời đã khẳng định tài năng thần đồng của anh. Trong lần làm khách mời VTV3, khi nhà báo Lại Văn Sâm hỏi nhà thơ Trần Đăng Khoa về kí ức tuổi học trò, anh tâm sự rằng ngày đầu tiên đến trường anh đã học bài học đầu tiên không phải là bài học ngày khai trường mà là bài học về chiến tranh. Bởi năm 1964 là năm chiến tranh ác liệt ở hai miền Nam Bắc, anh đã xúc động khi chia tay các thầy cô lên đường nhập ngũ. Cảm xúc thơ của anh lúc đó dạt dào về hình ảnh Thầy giáo đi bộ đội, thầy đi rồi, lại nhớ nhung, viết tiếp Nghe thầy đọc thơ, rồi tưởng tượng ngày thầy trở về qua bài thơ Hỏi đường… Và rồi mong nhớ thầy, mong nhớ quá nên đã tưởng tượng thầy giáo mình bị thương, nếu là bị thương cũng được, dù có mất một chân cũng được, miễn là trở về: Bàn chân thầy giáo…
Trần Đăng Khoa đã có những hình ảnh thơ thú vị, thể hiện sự cảm nhận tinh tế, trí tưởng tượng phong phú, kiểu như: Lá dừa chiếc lược chải vào mây xanh, hoặc là Ngoài thềm rơi chiếc lá đa / Tiếng rơi rất mỏng như là rơi nghiêng… Bài thơ Hạt gạo làng ta thể hiện kiểu tư duy độc đáo của cậu thiếu niên 11 tuổi Trần Đăng Khoa, kiểu tư duy từ giọt nước nhìn ra biển cả… Từ niềm tự hào về hạt gạo quê hương thấm đẫm hương hoa và lời ca của mẹ, đến sự ngợi ca giá trị của hạt gạo… thì người đọc nhận ra sức mạnh của dân tộc ta trong cuộc chiến tranh vệ quốc…
Trần Đăng Khoa nhập ngũ ngày 26 tháng 2 năm 1975, được bổ sung về quân chủng Hải quân, và anh đã sáng tác những vần thơ về biển đảo dạt dào cảm xúc, cảm xúc của người lính: Đợi mưa trên đảo sinh tồn (1982), Lính đảo hát tình ca trên đảo (1982), Thơ tình người lính biển… Những bài thơ về biển đảo của Trần Đăng Khoa đã tiếp tục truyền thống thơ ca trong những năm chống Mỹ, đấy là thơ của những người lính cầm súng trong chiến hào mang hơi thở nóng hổi của chiến trường: Chúng tôi ngồi trên đảo Sinh Tồn / Bóng đen sẫm như gốc cây khô cháy / Mắt đăm đăm nhìn về nơi ấy / Nơi cơn mưa thăm thẳm xa khơi / ánh chớp xanh lấp loáng phía chân trời.
Nhiều nhà thơ, nhà văn cũng lấy đề tài về biển đảo để thể hiện tình yêu đất nước của mình, nhưng làm sao có thể hình dung được người lính đảo đang đăm đăm nhìn về nơi ấy, nơi xa xăm từ phía chân trời, đợi mưa rơi.
Chỉ có người lính trên đảo Sinh Tồn mới có nỗi ao ước, nỗi khát thèm đến cháy bỏng, ước gì được nhìn thấy mưa rơi, để đá san hô sẽ nảy cỏ xanh lên, để Chúng tôi không cạo đầu cho tóc lên như cỏ, rồi khao nhau, bữa tiệc linh đình toàn nước ngọt, rồi trụi trần nhảy choi choi trên cát… Chúng tôi ngồi ôm súng đợi mưa rơi, là điệp khúc, là điểm nhấn trong bài thơ Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn của nhà thơ Trần Đăng Khoa.
Và rồi trí tưởng tượng thi ca đã khiến cho nhà thơ viết lên những câu thơ hờn lẫy: Mưa đi! Mưa đi! Mưa cho táo bạo / Mưa như chưa bao giờ mưa / Sấm sét đùng đùng… Và rồi chuyển sang giọng nài nỉ: Mưa đi! Mưa đi! Mưa cho mãnh liệt / Mưa lèm nhèm chúng tôi chẳng thích đâu / Nhưng không có mưa rào thì cứ mưa ngâu / Hay mưa bụi… mưa li ti… cũng được. Đợi chờ, hi vọng và không bao giờ tuyệt vọng: Mưa vẫn giăng màn lộng lẫy phía xa khơi / Mưa yểu điệu như một nàng công chúa / dù mưa chẳng bao giờ đến nữa / Thì xin cứ hiện lên thăm thẳm cuối chân trời / Để bao giờ cánh lính chúng tôi / Cũng có một niềm vui / đón đợi.
Lính đảo chờ mưa rồi Lính đảo hát tình ca trên đảo, mà sân khấu làm từ đá san hô, vài tấm tôn chôn mấy cánh gà, bởi chẳng phông màn nào chịu nổi gió Trường Sa. Thần đồng thơ đối mặt với sóng, với gió, với sự trần trụi của biển đảo, với sự đợi chờ từng giọt mưa từ cuối chân trời đã viết nên những vần thơ dí dỏm, cái dí dỏm, hóm hỉnh từng một thời được nhà thơ Phạm Tiến Duật viết trên đường Trường Sơn, kiểu như Xe không kính không phải vì xe không kính… Hay Trường Sơn Đông nhớ Trường Sơn Tây…
Hình ảnh người lính trọc đầu trong thơ của Trần Đăng Khoa tạo nên ấn tượng về người lính đảo, lính hải quân phải cạo trọc đầu, vì không có nước, không có mưa Ôi ước gì được thấy mưa rơi… Chúng tôi không cạo trọc đầu để tóc lên như cỏ (Đợi mưa trên đảo Sinh Tồn), cũng hình ảnh này trong bài thơ Tây Tiến – Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc đã gây nên ấn tượng về hình ảnh người lính Tây Tiến oai hùng và không kém phần bi tráng.
Sân khấu lô nhô mấy chàng đầu trọc / Người xem ngổn ngang cũng… rặt lính trọc đầu / nước ngọt hiếm không lẽ dành gội tóc / Lính trẻ lính già đều trọc tếu như nhau. Diễn viên là anh mà khán giả cũng là anh – những người lính ngoài hải đảo xa xôi, lúc họ đùa gọi nhau là sư cụ và rồi hóa ra sư cụ cũng hát tình ca… Tếu táo, nghịch ngợm, vui đùa để quên đi những thiếu thốn ngoài đảo xa, để chắc thêm tay súng giữa biển trời bao la. Và các anh đã bao lần sử dụng trí tưởng tượng để ghi lại những phút giây rung động của con tim: Rằng có đêm anh dắt em đi dạo / Gương mặt em dịu dàng, hàng cây cũng tươi xinh / Mở mắt chung chiêng nghe lưng trời sóng vỗ / Và tay mình lại nắm lấy tay minh. Khi bừng tỉnh giấc mơ, mới biết tay mình vẫn nắm lấy tay mình, và họ khao khát, mong chờ: Người yêu chúng anh ơi, các em ở phương nào? Các em cao hay lùn? Có trời mà biết được / Bóng dáng nào sẽ đến với chúng anh? Trong bốn phía chỉ âm u mây nước. Những cô gái ở đất liền khi đọc được những vần thơ này hẳn không tiếc thời gian gửi thư, nhắn tin về biển đảo thân yêu, nhờ những cánh hải âu mang đến cho các anh - những người lính hải quân tình cảm yêu thương của hậu phương.
Tưởng tượng, nhớ nhung và ao ước đã chắp cánh cho những người lính đảo hát tình ca trên đảo, dẫu rằng: Điệu tình ca cứ ngân lên chót vót / Bỗng bàng hoàng nhìn lại phía sau / Ngoài mép biển. người đâu lên đông thế / Ồ, hóa ra toàn những đá trọc đầu.
Bài thơ Thơ tình người lính biển có đối tượng trữ tình là em và cái tôi trữ tình là anh. Anh – người lính hải quân: Anh ra khơi / Mây treo ngang trời những cánh buồm trắng / Phút chia tay, anh dạo trên bến cảng / Biển một bên và em một bên. Dường như biển mênh mông, biển dạt dào sóng vỗ đã cân bằng cùng với em ân cần mà dịu ngọt, mảnh mai yếu đuối mà thủy chung, thương nhớ. Bước chân anh – người lính đảo không còn chống chếnh, cô đơn, rợn ngợp trước biển trời, hải đảo, bởi bên anh có em, em nói vu vơ và em lặng lẽ mà lòng anh ấm áp, tin tưởng, hi vọng, sức mạnh trong anh là tình yêu của em, là sự đợi chờ của em, là sự chung thủy của em. Đất nước còn gian lao chưa bao giờ bình yên / Bão thổi chưa ngừng trong những vành tang trắng / Anh đứng gác. / Trời khuya. / Đảo vắng / Biển một bên và em một bên. / Vòm trời kia có thể sẽ không em / Không hiểu nữa. / Chỉ có anh với cỏ / Cho dù thế thì anh vẫn nhớ / Biển một bên và em một bên
Đọc bài thơ Thơ tình người lính biển của nhà thơ Trần Đăng Khoa tình yêu ở hậu phương càng thêm thắm thiết, chung thủy, mặn nồng, để anh ra khơi vững chắc tay súng, em hậu phương sẽ là nìềm tin, hi vọng cho anh. Câu thơ Biển một bên và em một bên đã làm nên vẻ đẹp của đối tượng trữ tình là em. Em song hành cùng biển, em cân bằng cùng biển, em lặng lẽ bên biển dạt dào sóng vỗ, để anh – người lính hải quân yên tâm, quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ biển đảo thân yêu của Tổ Quốc.
Những bài thơ về biển đảo của nhà thơ Trần Đăng Khoa được viết vào những năm 80 của thế kỷ XX, đến hôm nay vẫn còn nguyên ý nghĩa, khi cả nước cùng hướng về biển đảo thân yêu, thì thơ anh đã khẳng định một chân lý trường tồn: Biển đảo là máu thịt, là tình yêu và không thể tách rời khỏi lãnh thổ Việt Nam.
Hoàng Thị Thu Thủy