ĐỜI THIẾU MẸ HIỀN KHÔNG PHỤ NỮ,
ANH HÙNG THI SĨ HỎI CÒN ĐÂU?
Phụ nữ là linh hồn, là tình yêu, là cuộc sống của nhân loại. Thế giới chọn ngày 8 tháng 3 hàng năm làm ngày Quốc tế Phụ nữ và đó cũng là dịp để chúng ta tôn vinh về Phụ nữ Việt Nam – những người đã dệt nên những trang sử vàng chói lọi cho đất nước…
Viết về họ - phụ nữ Việt Nam, văn học Việt Nam từ thời Trung đại đã có cái nhìn cảm thông, chia sẻ. Từ hình tượng người con gái Nam Xương trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ, đến thân phận của người chinh phụ trong Chinh phụ ngâm, hay cái tôi trữ tình của nhà thơ Hồ Xuân Hương, nàng Kiều của Nguyễn Du… đều được thể hiện qua cảm hứng thương xót và ngợi ca.
Dù viết ở thể loại nào, thời đại nào thì hình tượng người phụ nữ trong văn học Việt Nam cũng giữ nguyên nét đẹp truyền thống, nét đẹp mà Chủ tịch Hồ Chí Minh trao tặng: anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang.
Thơ ca hiện đại Việt Nam khi viết về hình tượng người phụ nữ thường được soi chiếu trên hai góc độ: người con gái khao khát yêu đương, người mẹ vất vả nhọc nhằn, cần cù nhẫn nại, nhường nhịn cho con “Bên ướt mẹ nằm, bên ráo con lăn”…
Xưa kia, bà Tú vất vả tảo tần để Nuôi đủ năm con với một chồng, không một lời thở than, đến nỗi ông Tú phải chửi đổng: Cha mẹ thói đời ăn ở bạc / Có chồng hờ hững cũng như không… (Thương vợ - Tú Xương). Thì đến bây giờ người phụ nữ Việt Nam vẫn vậy, vẫn tảo tần khuya sớm: Cành bàng thả lá heo may / Mẹ gầy, cái dáng khô gầy cành tre / Gót chai nứt nẻ đông hè / Ruộng sâu bấm mãi đã tòe ngón chân (Mẹ - Nguyễn Ngọc Oánh). Hình ảnh thân cò lặn lội cứ ám ảnh trong những trang thơ của biết bao thi nhân, nghệ sĩ.
Sử dụng thể thơ tự do, mỗi nhà thơ khi viết về mẹ cứ bộc bạch hết mọi nỗi niềm, mà dường như càng kể thì nỗi thương xót và tình thương yêu càng hòa quyện trong tâm hồn mỗi độc giả: Khi con biết đòi ăn / Mẹ là người mớm cho con muỗng cháo / khi con biết đòi ngủ bằng tiết tấu / Mẹ là người thức hát ru con / Bầu trời trong mắt con ngày một xanh hơn / Là khi tóc mẹ ngày thêm sợi bạc / Mẹ thành hiển nhiên như trời đất / Như cuộc đời – không thể thiếu trong con (Ngày xưa có mẹ - Thanh Nguyên). Mẹ được ví với những gì gần gũi, giản dị, những gì thân thương nhất. Ca dao xưa viết về mẹ cũng ví với những gì ngọt ngào: Mẹ già như chuối bà hương / Như xôi nếp một / Như đường mía lau… Các nhạc sĩ viết về mẹ cũng ví von như thế: Mẹ là lọn mía ngọt ngào / Mẹ là nải chuối buồng cau…
Mỗi vần thơ viết về mẹ đều ngợi ca tình yêu thương của mẹ bao la như sông như biển, tình mẹ theo con suốt năm rộng tháng dài, tình mẹ cho con chân cứng đá mềm, tình mẹ trong con là Tổ quốc, quê hương.
Trái tim yêu thương hơn báu vật trên đời, hình bóng mẹ trong con trầm tích cả nỗi nhớ, niềm thương, cả nỗi buồn xa con, trống vắng, cả một đời lam lũ tảo tần; và rồi con ước ao, nguyện cầu được xẻ chia những lo toan cùng mẹ, được gánh bớt những nhọc nhằn đời mẹ.
Để trở thành người mẹ chịu đựng, người mẹ tảo tần, người mẹ yêu thương thì họ là em, là chị, là người đàn bà, là người phụ nữ đắm say, khao khát tình yêu: Em trở về đúng nghĩa trái tim em / Là máu thịt, đời thường ai chẳng có / Cũng ngừng đập lúc cuộc đời không còn nữa / những biết yêu anh khi đã chết đi rồi (Tự hát – Xuân Quỳnh), khi đọc những câu thơ này ta nhớ đến Sóng, đến Thuyền và biển của Xuân Quỳnh. Một trái tim khao khát, mãnh liệt, dâng hiến cuộc đời mình cho tình yêu, cho thơ và cuộc đời. Người phụ nữ trong thơ Xuân Quỳnh không thụ động, âm thầm chịu đựng như cái bến trong ca dao: Thuyền ơi có nhớ bến chăng?... mà chủ động, tự tin, bình đẳng trong tình yêu: Chỉ có biển mới biết / Thuyền đi đâu về đâu / Những ngày không gặp nhau / Biển bạc đầu thương nhớ / Những ngày không gặp nhau / Lòng thuyền đau rạn vỡ (Thuyền và biển - Xuân Quỳnh)
Họ - phụ nữ Việt Nam không chỉ khiêm tốn, giản dị, chân thành mà khao khát yêu thương, khao khát dâng hiến và khát khao được hoàn thiện phẩm chất bên trong của mình: Em sợ lời khen của anh / Như sợ đêm về hắt tối / Nhiều khi ngồi buồn một mình / Trách anh sao mà nông nổi / Hãy chỉ cho em cái kém / Để em nên người tốt lành / Hãy chỉ cho em cái xấu / Để em chăm chút đời anh (Anh đừng khen em – Lâm Thị Mỹ Dạ). Khắt khe với bản thân mình trước lời khen của anh, nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ đã chứng minh sự hoàn thiện trong tâm hồn mình qua thơ và qua cả những năm tháng gian nan của cuộc đời, khi người chồng – nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường bị bạo bệnh thì chị sẵn sàng Cho anh tựa vào em… Lúc còn trẻ, chị từng khao khát: Cuộc đời em vo tròn lại, và ném vào cuộc đời anh, nó sẽ lặn sâu tận đáy, cuộc đời anh, sâu cho đến tận… cái chết. Kiểu khao khát mà bà Hồ Xuân Hương từng thể hiện qua bài Mời trầu: Có phải duyên nhau thì thắm lại / Đừng xanh như lá bạc như vôi… Và rồi, khi đã trải qua những thăng trầm của cuộc đời, tâm hồn chị đã thăng bằng trở lại, đằm sâu trong tình thương, tình yêu với chồng con. Sẵn sàng đứng thẳng cho anh tựa vào em, dù lúc trẻ ước chi có cái bờ vai mà tựa.
Phụ nữ Việt Nam cùng nghiêng vai gánh vác công việc của toàn dân tộc, khi có giặc người con trai ra trận / người con gái trở về nuôi cái cùng con / ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh... Đất nước chúng ta từng đi qua biết bao cuộc chiến tranh, và mỗi một cuộc chiến tranh đã để lại hậu quả vô cùng nặng nề với những người vợ góa, những người mẹ già và những đứa con côi.
Cho nên, khát khao, chân thành, đằm thắm cũng chưa thể làm nên hạnh phúc cho người phụ nữ Việt Nam, bởi nói như Thi sĩ Chế Lan Viên: Chạnh thương cô Kiều như đời dân tộc / Sắc tài sao mà lắm truân chuyên, nên nỗi bất hạnh của người phụ nữ Việt Nam từ bao đời nay như định mệnh, như lời tự tình, giãi bày, khao khát của nhà thơ Lê Thị Mây trong bài thơ Những mùa trăng mong chờ.
Bài thơ thể hiện những cung bậc cảm xúc của em trong tình yêu: rung động, yêu thương, hi vọng, hồi hộp, đắm say và chờ đợi mỏi mòn... Gặp nhau tròn mùa trăng / Em trẻ như bầu trời / Vòng tay anh đằm thắm / Giầu lời ru trên môi / Mai lại tiễn xa nhau / Vầng trăng cong chẽn lúa / Đêm đêm chín ngàn sao / Rỏ vào tim giọt lửa. Nhà thơ mượn hình tượng trăng để bày tỏ tình yêu của người con gái trong chiến tranh. Chỉ cần thư anh hẹn về thì vầng trăng đã hẹn mọc, và được gặp anh – người lính mang ba lô từ chiến trường trở về thì niềm vui của em được so sánh Như trăng mọc ban ngày. Gặp anh tròn mùa trăng thì em trẻ như bầu trời. Rồi khi chia xa vầng trăng cong chẽn lúa. Hình dung và tưởng tượng của nhà thơ Lê Thị Mây thật dồi dào ý tứ, đó không chỉ là cảm xúc, thi hứng mà còn là sự trải nghiệm, chứng kiến... Chị cũng từng mất đi người chồng sắp cưới của mình trong chiến hào đánh Mỹ, nên chị thấu hiểu nỗi đau đớn, sự mong chờ của người con gái, người phụ nữ, người đàn bà. Em đứng trên cầu đợi anh / Dưới chân cầu nước chảy / đứng một ngày đất lạ thành quen / Đứng một đời em quen thành lạ…(Đợi – Vũ Quần Phương)
Ai trong cuộc đời mình cũng mong muốn hạnh phúc, với phụ nữ thì hạnh phúc là cứu cánh cho sự nghiệp và tình yêu. Khi tình yêu đơm hoa kết trái, người con gái từng khao khát, lãng mạn, ước mơ sẽ đón nhận niềm hạnh phúc được làm vợ, làm mẹ, rồi khi đã làm mẹ thì họ sẵn sàng gánh chịu những lam lũ, nhọc nhằn, lo toan, chịu đựng, không một tiếng thở than và nhẫn nại nuôi con, để rồi những người con luôn mang trong mình một kí ức sâu sắc về mẹ, kí ức thiêng liêng, tha thiết, và gần gũi biết bao…
Viết về mẹ, về người phụ nữ Việt Nam mỗi nhà thơ đều gửi gắm vào trong từng con chữ tình yêu thương, niềm trân trọng, sự cảm phục và sự kính yêu… và đó cũng là chút lòng tri ân của thi nhân, nghệ sĩ về họ - những người mà như đại văn hào M. Gorki từng viết: Đời thiếu mẹ hiền không phụ nữ / Anh hùng, thi sĩ hỏi còn đâu?
Hoàng Thu Thủy