Thấm thoắt thoi đưa, đã hơn 10 năm LHS Lào đến với đất Huế, với trường CĐSP Thừa Thiên Huế, đến với các thầy cô giáo của nhà trường – những người dạy dỗ, chăm lo và nhận làm con, khi các em – những LHS Lào xa gia đình thân thương của mình. Ngày Hội bảo trợ LHS Lào đã in đậm dấu ấn trong thầy cô và các em, để rồi thầy giáo Hoàng Ngọc Quý – người từng nhận nuôi biết bao đứa con Lào thân yêu đã viết nên những vần thơ giàu nhân nghĩa, yêu thương.
Vị ngọt hoa Chămpa - Hoàng Ngọc Quý
Tặng các em Lưu học sinh Lào (nhận làm con bảo trợ)
Dẫu biết rằng không phải con của ba
Lại không phải sinh ra cùng Tổ quốc
Nhưng sao mà trở nên thân thuộc
Tiếng mẹ, tiếng ba nghe quá thân tình
Con xa nhà khi tuổi còn xanh
Sang Việt Nam với bao điều mới lạ
Học tiếng, làm quen...quá nhiều vất vả
Nên cần nhiều sự đùm bọc thương yêu
Ba làm thầy chẳng giàu có bao nhiêu
Chỉ chia sẻ tấm lòng với con khi còn gian khó
Một chút yêu thương để làm điểm tựa
Nâng bước từng ngày cho chặng đường xa
Vẫn biết rằng, Việt-Lào hai nước chúng ta
Đã là mối tình sắt son trong lịch sử
Thế hệ ngày nay cần làm thêm rạng rỡ
Một giọt ân tình cũng làm nước thêm sâu()
Có những việc bình thường mà nhớ rất lâu
Ba đã ghi điều này vào ký ức
Hương hoa Chămpa mang nhiều vị ngọt
Thêm đậm đà tình nghĩa thân thương
Huế, 21/3/2012
Tứ của bài thơ là Vị ngọt hoa Chămpa, trong cái tứ đó người đọc như cảm nhận hương hoa và vị ngọt của loài hoa tượng trưng cho đất nước Triệu Voi. Vị ngọt không chỉ thấm trên đầu lưỡi, mà trong tâm hồn, tấm lòng của người Việt và trong hình dung về điệu múa Lăm vông uyển chuyển, nhịp nhàng cùng tràng hoa đeo trước ngực trong ngày Lễ Bunpimay của Lào…
Phải thân thương, gắn bó và yêu quý lắm thì thầy giáo Hoàng Ngọc Quý mới mở đầu bài thơ bằng những câu thơ như gợi, như kể, thật thà và giản dị: Dẫu biết rằng không phải con của ba / Lại không phải sinh ra cùng Tổ quốc / Nhưng sao mà trở nên thân thuộc / Tiếng mẹ, tiếng ba nghe quá thân tình. Ai cũng nghĩ rằng, bảo trợ thêm các em là trách nhiệm, là việc làm thể hiện tình Hữu nghị, là sự gắn bó keo sơn giữa hai dân tộc… là sự trao đổi và giao lưu văn hóa, phong tục, tập quán… nhưng ít ai nghĩ rằng: Tiếng mẹ, tiếng ba nghe quá thân tình. Cái thật thà của khổ thơ nằm ngay những dòng đầu tiên: Dẫu biết rằng không phải con của ba / Lại không phải sinh ra cùng Tổ quốc… Lịch sử gắn bó giữa hai dân tộc từ bao đời nay chính là bắt đầu từ những suy nghĩ giản dị, thân thương như thế. Hai đất nước ngăn cách bởi biên giới, mà tình cha con sâu sắc mặn mà.
Con xa nhà khi tuổi còn xanh / Sang Việt Nam với bao điều mới lạ / Học tiếng, làm quen...quá nhiều vất vả / Nên cần nhiều sự đùm bọc thương yêu. Người viết nên những dòng thơ như tự tình, giãi bày này lại chính là người đưa ra chủ trương Ngày Hội bảo trợ LHS Lào. Thì ra mọi chủ trương, đường lối trở nên dễ thực hiện nếu bắt đầu từ cái tâm, đây không chỉ là cái tâm của người thầy mà còn là cái tâm của người làm cha, làm mẹ. Có người từng nói rằng: Thầy dạy tôi một ngày là cha của tôi một đời. Nay không chỉ dạy mà còn nuôi, còn xem học trò là con và còn thấu hiểu cả nỗi vất vả, nhọc nhằn của các em LHS Lào: Học tiếng, làm quen...quá nhiều vất vả; rồi không chỉ là thấu hiểu mà còn là đồng cảm, thầy Hoàng Ngọc Quý cũng từng tiễn con sang đất nước hoa anh đào, cũng từng động viên con mình: Hành trình dài còn lắm nỗi gian truân / Đồ đạc mang theo nhẹ nhàng hơn nổi nhớ / Nghị lực cao hơn cả thân hình bé nhỏ / Nhớ nhung nhiều nhưng con chẳng khóc đâu (Mùa xuân tiễn con đi học xa – Hoàng Ngọc Quý). Đồng cảm, kí ức, tình thương và nỗi nhớ hòa quyện trong khổ thơ thứ hai đã làm nên chiều sâu của cảm xúc.
Lời tự tình của tác giả sao mà thân thương, nghe nhói cả cõi lòng: Ba làm thầy chẳng giàu có bao nhiêu / Chỉ chia sẻ tấm lòng với con khi còn gian khó / Một chút yêu thương để làm điểm tựa / Nâng bước từng ngày cho chặng đường xa. Văn hóa của người Việt là nói khiêm, nói nhún, nhưng câu thơ: Ba làm thầy chẳng giàu có bao nhiêu, không phải là nói khiêm, nói nhún, mà thật lòng như thế. Tiếng là mỗi năm chỉ nhận một, hai con về nhà bảo trợ, nhưng mỗi bữa cơm mời các con ăn không chỉ là một, hai con, mà nhiều khi lên đến mười lăm, mười sáu em. Có đến mười mấy người con ăn một bữa cơm, không đáng là bao, mà ba mẹ tự hào, tự hào vì nhà mình đông con đông cháu. Đó mới là văn hóa người Việt – nhiều con hơn nhiều của, đó cũng là tình tương thân, tương ái giúp đỡ nhau trong khó khăn “một miếng khi đói bằng một đọi khi no”. Nuôi hết cả mấy năm học thì không thể, nhưng sẻ chia tấm lòng thì có thể và đó là điểm tựa nâng bước từng ngày cho chặng đường xa. Ác-si-met từng nói rằng: Hãy cho tôi một điểm tựa, tôi sẽ nâng cả trái đất lên. Điểm tựa cho các con là tình yêu thương, sự chia sẻ tấm lòng của các thầy cô giáo, “một chút yêu thương” sẽ là điểm tựa cho các em về tình cảm, ý chí... thì tình thương đó không chỉ để nâng bước từng ngày cho những chặng đường xa, mà còn là niềm tin, là hi vọng, là tương lai, là sự nghiệp, là hạnh phúc… Tấm lòng người ba – người thầy giàu có hơn của cải. Tình yêu thương là đạo lý ngàn đời của dân tộc Việt Nam, kết hợp cùng nét văn hóa hiền hòa thân thương từ những em LHS Lào thì sẽ hòa quyện thành nền văn hóa nhân văn bất diệt. Ý thức về giá trị của tình thương: Một giọt ân tình cũng làm “nước thêm sâu”, chỉ “một giọt” về tình cảm “ân tình” góp lại sẽ tạo ra những giá trị nhân văn cao cả. Bác Hồ đã từng nói tình hữu nghị giữa hai nước Việt Nam - Lào sâu hơn nước Hồng Hà, Cửu Long. Để có nguồn nước sâu phải có từng giọt nước và thầy giáo Hoàng Ngọc Quý không chỉ nhắc nhở mà khắc sâu trong lòng mỗi chúng ta – người Việt và người Lào hãy tô đậm mối tình sắt son trong lịch sử.
Nếu nói thơ chỉ là một mảnh, một phiến đoạn của cảm xúc, thì mỗi mảnh, mỗi phiến đoạn cảm xúc trong bài thơ có thể mang tầm chân lý: Có những việc bình thường mà nhớ rất lâu / Ba đã ghi điều này vào ký ức / Hương hoa Chămpa mang nhiều vị ngọt / Thêm đậm đà tình nghĩa thân thương. Mở đầu bài thơ là ý thơ chứa nhiều trăn trở, ngại ngùng: Dẫu biết rằng không phải con của ba / Lại không phải sinh ra cùng Tổ quốc; nhưng kết thúc bài thơ lại khẳng định Có những việc bình thường mà nhớ rất lâu, bởi những việc bình thường giản dị là tầm vóc của những tấm lòng cao cả, những tấm lòng lấy tình nghĩa thân thương làm trọng, và đó chính là hương hoa Chămpa mang nhiều vị ngọt đã ngạt ngào lan tỏa bốn phương. Hình tượng hoa Chămpa được nhân hóa trong bài thơ Vị ngọt hoa Chămpa không chỉ là sự sẻ chia, đồng cảm tình cảm thương yêu của thầy cô giáo trường CĐSP Thừa Thiên Huế với những LHS Lào, mà còn thăng hoa tình cảm hữu nghị bền vững bao đời giữa hai dân tộc Việt – Lào anh em.
Hoàng Thu Thủy