H Học văn từ bậc Phổ thông cho đến bậc Đại học, chưa một lần nào tôi tự hỏi rằng Văn học là gì? Vậy mà dám bàn luận về những câu nói nổi tiếng dạng như: Văn học là nhân học (M.Gorki), hoặc Truyện Kiều còn, tiếng Nam còn, tiếng Nam còn, nước Nam còn… (Phạm Quỳnh), có lần tôi còn xung phong lên bảng bình luận về câu thơ của cụ Đồ Chiểu: Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm, Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà… Rồi còn phấn đấu theo lý tưởng “Lập thân tối hạ thị văn chương” theo ý trong Tả truyện là lập đức, lập công và lập ngôn… Học năm thứ 2 Đại học Ngữ Văn, nhà trường có cuộc thi viết truyện ngắn, lúc đó tôi cũng được giải thưởng, giải thưởng ghi là dành cho truyện ngắn mi ni, nhận số tiền thưởng mừng rơn, rủ bạn bè đến cửa hàng Nam sông Hương ăn chè đậu đen. Thời đó, ăn một ly chè nhớ mãi… Vậy mà khi học đến năm thứ tư, học Lý luận văn học với GS. Phương Lựu, tôi chợt thấy mình thuộc loại “điếc không sợ súng” dám viết truyện dự thi và còn hãnh diện vì có giải thưởng… Thế là gác kiếm, bỏ mộng viết văn.
Sau này, có lần định cầm bút trở lại thì lại đọc được truyện Trăng nơi đáy giếng, giật mình, sao lại đem chuyện của người khác ra viết thế nhỉ? Và tôi cũng biết cuộc chuyện trò giữa nhà văn và nhân vật chính. Nhân vật chính chỉ nói với nhà văn một câu ngắn gọn: Văn tức là người…
Giờ chỉ còn một ước ao, khi nào rảnh rỗi viết một cuốn tiểu thuyết về chính những gì mình đã trải nghiệm… Mơ là vậy, không biết có tài mà viết không, vì viết lách là năng khiếu, là bẩm sinh, không thể muốn là được.
Không trở thành nhà văn, nhưng trải qua nghiệp dạy văn hơn 30 năm với đủ các phân môn từ Lý luận văn học, đến Văn học Việt Nam, Văn học nước ngoài… Chỉ trừ ngôn ngữ là không dám mó vào thôi… Có những thời điểm dạy văn mà cứ tưởng đang tập xiếc. Thời còn sinh viên khi tôi đọc xong cuốn Ông già và biển cả của nhà văn Hêmingway, về nhà nói chuyện với ba tôi, sao chuyện chẳng có gì mà viết nhiều thế nhỉ và vì sao nhà văn này được giải thưởng Nobel? Ba tôi chỉ nhìn tôi và cười khẩy, tôi biết cụ coi thường tôi, nhưng tôi cũng không bận lòng thêm… Cho đến những năm ở Thừa Thiên Huế thiếu giáo viên tiểu học trầm trọng, trường CĐSP TT Huế dạy cấp tốc cho ngành học này, rồi đến khi bắt đầu đủ lượng giáo viên, họ phải trở về nâng chuẩn trình độ, thế là chúng tôi phải dạy hết những chương trình văn học trong và ngoài nước… Không ngờ phải dạy tác phẩm Ông già và biển cả, tôi lúng túng như gà mắc tóc. Vào lớp tự trấn an mình bằng những câu hỏi kiểu như: tác phẩm Ông già và biển cả có hay không? Vì sao mà hay? Vì sao nhà văn được nhận giải thưởng Nobel? Dường như để làm vừa lòng giáo viên, các giáo sinh cứ ngồi mà khen mà tán dương, kiểu như tác phẩm hay vì nhà văn được giải thưởng Nobel, được giải thưởng Nobel vì tác phẩm hay… Tôi cười ngất, vì các giáo sinh không hề đọc tác phẩm, chỉ đọc đoạn trích mà đã khen nức nở như thế, còn khi đọc xong tác phẩm thì không biết họ có cảm nhận giống tôi như những năm trước đây. Thế rồi buổi học cũng trôi qua, nghĩ rằng dạy văn cũng dễ thật, cô không thấy hay, trò không đọc tác phẩm mà cũng ngồi với nhau tán dương đến 2, 3 tiết…
Cho đến một ngày, trời mưa gió ầm ầm, một giáo sinh lên tập giảng đoạn trích Xanchiagô và con cá kiếm, loay hoay mất 1 tiết trên bục giảng, mồ hôi chảy ròng ròng, rồi quay lại xin lỗi cô giáo và cả lớp rằng không thể nào phân tích được. Tôi chợt nhớ đến một sinh viên ngành du lịch cũng từng đứng trên bục giảng đến 30 phút rồi quay lại xin lỗi cô giáo và cả lớp, không thể giảng được bài Đây thôn Vĩ Dạ của Hàn Mặc Tử, vì tác phẩm hay quá… Thấy giáo sinh quá tội, tôi hỏi đùa cho vui: Em bao nhiêu tuổi, dạy ở đâu, chồng làm nghề gì?… Nghe em trả lời xong, tôi chợt nhận ra đến giờ phút này mình mới hiểu đúng giá trị của tác phẩm Ông già và biển cả. Con người mới vĩ đại làm sao, dù Xanchiagô đã ngoài 70 tuổi vẫn ra vụng khơi đánh cá, dù con cá nặng hơn 3 tạ, vẫn cố kéo về… dù kết quả chỉ còn là bộ xương nhưng ông đã chứng minh được với mọi người, mình không phải là người bỏ đi…
Hồi mới ra trường, sinh viên cứ yêu cầu cô giáo hát sau khi dạy xong, tôi đọc bài thơ Lịch sử những vì sao thay cho hát, bài thơ có hai câu lặp lại: Những mảnh tim bay đi bốn phương trời, tôi bỏ bớt một câu cho dễ đọc. Mỗi lần đọc xong, sinh viên vỗ tay, khen hay, tôi cứ lấy bài thơ đó ra để đối phó trong những tình huống khó khăn và cứ bỏ đi một câu như thế vì thấy nó trùng nhau. Bảy năm sau, đang đạp xe đi dạy, tôi chợt giật mình, sao mình giết chết bài thơ mà không hề áy náy. Hai câu thơ giống nhau là điểm nhấn nghệ thuật của bài thơ, sao mình lại vứt bớt 1 câu. Câu lặp lại mới là câu hay nhất, bởi đó chính là tác giả tự lẩm bẩm một mình, tự nói với lòng mình là khi người ta bội bạc trong tình yêu thì Những mảnh tim bay đi bốn phương trời…
Kỷ niệm ấm lòng nhất khi đến các huyện dạy nâng chuẩn trình độ cho giáo viên tiểu học là có một giáo sinh (ở huyện Phú Vang) đem Truyện Kiều chép tay ra khoe với tôi. Những ảnh vẽ về Kiều, Kim Trọng, Thúy Vân… sao mà giống trong sách Truyện Kiều đến vậy. Em còn dặn tôi đừng cho cả lớp biết vì sợ bạn bè trêu chọc. Tôi hỏi em vì sao không mua Truyện Kiều mà chép lại Truyện Kiều, em nói rằng vì mê Truyện Kiều mà ngồi tỉ mẩn chép từng câu vào vở. Tôi chợt nhớ lại những dấu ấn về Truyện Kiều trong chặng đường dạy học văn chương của mình. Năm học lớp 6 (hệ 10 năm), tôi đã xung phong lên bảng kể Truyện Kiều, tôi nhớ Truyện Kiều qua lời ru của ba tôi, những câu như Vầng trăng ai xẻ làm đôi / Nửa in gối chiếc, nửa soi dặm đường… hay Long lanh đáy nước in trời / Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng… Và con trai đầu lòng của tôi cũng thuộc khá nhiều Truyện Kiều, do cháu bị tôi bắt tập viết cho đến năm học lớp 11, mỗi lần tập viết cứ chép lại Truyện Kiều…
Gần 20 năm dạy học Truyện Kiều, ngoài một giáo sinh chép vào sổ tay Truyện Kiều, còn không một sinh viên nào đọc qua được 3.254 câu thơ Truyện Kiều, thế nhưng bình tán về vẻ đẹp chị em Thúy Kiều thì 10 bài viết như một, rằng cô Kiều đẹp mà khổ, cô Vân đẹp mà sướng… Tôi phải phân tích đoạn Kim Kiều tái hợp để giúp các em nhận chân giá trị cái đẹp và nỗi khổ của mỗi người. Thế là phải dỗ học trò, rằng đọc xong Truyện Kiều cô sẽ thưởng, rằng phải tóm tắt Truyện Kiều sau khi đã đọc xong… Cũng có lớp sinh viên nghe cô dỗ dành nhiều quá, cũng đọc, đọc xong Truyện Kiều, tôi hỏi rằng hay không thì các em thú nhận là có nhiều đoạn đọc rất khó hiểu. Rào cản về điển cố, về Hán ngữ trong văn học trung đại là điều không tránh khỏi.
Trước đây, khi học Truyện Kiều, bao giờ người thầy cũng đưa Truyện Kiều so sánh với Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, và ngợi ca thiên tài Nguyễn Du… Mãi rồi tôi cũng tìm được Kim Vân Kiều truyện để đọc, rồi bắt tay vào nghiên cứu, mới thấy cảm nhận văn chương của chúng ta đôi khi chủ quan thật, để khen người này thì phải hạ bệ người kia, mà đâu biết rằng mỗi tác giả khai thác đề tài về nỗi bất hạnh của số phận con người theo những chủ đề khác nhau… Lại ớ ra, Truyện Kiều không chỉ thuộc, không chỉ đọc, còn phải so sánh, nghiền ngẫm… Khi nghe sư Nhất Hạnh giảng về câu thơ Dấm chua kia mới bằng ba lửa nồng, tôi chợt hiểu thêm về thân phận làm lẽ của người phụ nữ trong chế độ phong kiến. vậy mà ngày nay, khối cô gái trẻ trung, xinh đẹp, tự do, tự chủ cứ muốn bước vào thân phận lẽ mọn là vì sao nhỉ?
Dù Nguyễn Du viết rằng “văn chương vô mệnh”, mà với văn chương tôi vẫn thấy nếu có duyên thì sẽ đeo đẳng nó suốt đời. Ngay như cái tên của tôi, có lần tôi thắc mắc với ba tôi, sao ba đặt tên con bằng vần trắc cho khổ, ba tôi không trả lời, chỉ đọc hai câu thơ của Vương Bột: Lạc hà dữ cô vụ tề phi / Thu Thủy cộng trường thiên nhất sắc, thế là tìm về Vương Bột, mày mò dịch thoát hai câu thơ của Vương Bột, và không ngờ trong lần thi vấn đáp về chuyên đề Tiến sĩ, GS. Nguyễn Lộc hỏi tôi về giá trị của hư từ dữ, cộng trong hai câu thơ này, tôi lúc đó cứ như “chuột sa chĩnh gạo”.
Thời học Phổ thông, tôi sợ nhất là học Nhật kí trong tù của Hồ Chí Minh, vì hễ học đến những bài thơ này là khi nào cũng có cảm giác như mình phải gồng lên để cảm nhận chất thép, tính chiến đấu… trong đó. Cho đến khi đứng trên bục giảng, tôi bắt đầu bình tĩnh tìm đọc nguyên tác, bản dịch, nghiên cứu kỹ hình tượng trong văn bản mới thấy tiếc cho cái thời học phổ thông, không được học hết cái hay của Nhật kí trong tù, bởi đó là tập thơ của con người hướng nội, của con người như mọi con người…
Khi học tiếng Nga, tôi cũng từng dịch văn bản Bản xô nát ánh trăng của Bét-tô-ven, thế rồi khi tìm hiểu về tập trường ca Mặt đường khát vọng của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, khi nghe anh nói rằng kết cấu bản trường ca này có ảnh hưởng giai điệu của Bản giao hưởng số 5 của Bét-tô-ven, tôi chợt hiểu thêm rằng học văn không chỉ đọc tác phẩm văn chương, mà cần rất nhiều kiến thức bổ trợ khác… lại mày mò vào thư viện đọc về Bản giao hưởng số 5 (năm 1982 chưa có Internet), vào Nhà Hát lớn Hà Nội nghe cho được Bản giao hưởng số 5… Thế là đã hình dung ra giai điệu, giọng điệu của bản trường ca Mặt đường khát vọng…
Chuyện văn chương còn dài dài, chỉ bàn thêm một chút về việc chấm điểm của môn văn trong nhà trường từ xưa đến nay có gì đổi mới không? Có những chuyện chắc phải thời gian sau mới đưa vào mục: chuyện bây giờ mới kể. Chỉ xin đưa ra một vài ví dụ mà thôi. Có người sau khi tốt nghiệp phổ thông xong, nói một câu gọn lỏn: thế là thoát môn văn; có người nói rằng điểm văn của mình không bao giờ bước qua được điểm 6, và thời sinh viên chúng tôi cũng có bạn bảo rằng: chủ nghĩa trung bình bên bờ vực thẳm… Lấy điểm môn văn sao mà khó thế. Có năm, đọc trên báo nói rằng: Ở Trung quốc, giáo viên muốn chấm tuyển sinh môn văn cho học trò phải tự ngồi thi giống học trò và trên 5 điểm mới được làm giảm khảo. Thế là lần đó thiếu hơn phân nửa giám khảo… Không biết ở nước ta, thực hiện theo kiểu đó thì có mấy giám khảo chấm văn trong các kì thi tuyển sinh. Nhìn bảng điểm tuyển sinh hàng năm trên các trang thông tin chúng ta sẽ hoang mang, trò kém hay thầy chấm điểm văn gắt gao quá. Ngồi thi 3 tiếng đồng hồ, chỉ có viết, không cần tính toán mà có bài chỉ có nửa điểm, một điểm, một điểm rưỡi… Đó phải chăng là lí do để học sinh xa lánh môn văn, dù “Văn học là nhân học”…
Huế ngày 5/11/2012Hoàng Thị Thu thủy